Phan Nhật Nam
Ngày 9 Tháng 11, 1989, nhân dân Đức hai miền đã phá sập Bức tường Bá
Linh – Sự kiện lịch sử dẫn tới thống nhất nước Đức sau đó 11 tháng, và
một loạt cách mạng lật đổ chế độ CS độc tài tại các nước Đông Âu, Liên
Xô. Đề cập đến sự sụp đổ chế độ Cộng sản Đông Âu, thế giới phải nhớ tới
vị lãnh đạo cuối cùng của Đảng CS Liên Xô Gorbachev, vừa mới qua đời
ngày 30 Tháng 8, 2022.
Lần ra đi của Gorbachev khiến người Việt liên tưởng một thế hệ Người Lính Quốc Gia
từng chiến đấu không khoan nhượng với chế độ cộng sản VN từ trước lần
đất nước chia phân 20/7/1954 cho đến ngày 30/4/1975. Trung tướng Phan
Trọng Chinh là một điển hình cho cuộc chiến đấu quyết liệt với kết thúc
uất hận của lần sụp vỡ miền Nam. Tướng quân Phan Trọng Chinh mất từ 17
Tháng 11, 2014 trong lặng lẽ, nay nhân lần ra đi của vị Gorbachev, bài
viết như một tưởng niệm dẫu muộn nhưng vô cùng cần thiết tại thời điểm
quyết định nầy qua chiến tranh Nga-Ukraine để có kết luận: Ai Thắng Ai?!
Chân dung Tướng Phan Trọng Chinh.
Một
Năm
1951, người thanh niên Phan Trọng Chinh 20 tuổi, với dáng dấp thư sinh,
mắt yếu do chứng cận thị bẩm sinh với học vấn Tú tài của Bộ Giáo dục
Pháp ắt hội đủ điều kiện miễn dịch, khỏi bị động viên, gọi đi lính.
Nhưng bởi thân phụ là Thiếu tá Phan Trọng Vinh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 22, đơn vị Quân đội Việt Nam đầu tiên; từ gương chiến đấu của thân
phụ và người anh, Trung úy Phan Trọng Hoan, Trường Thiếu Sinh Quân Phủ
Lạng Thương, Đáp Cầu, Bắc Ninh, thanh niên Phan Trọng Chinh quyết định
gia nhập quân ngũ, Khóa 5 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt.
Quyết
định càng hợp lý khi thân phụ tử trận tại Vĩnh Bảo, Hải Dương. Tình
cảnh “Thù Nhà-Nợ Nước” đã khiến họ Phan thêm quyết liệt để trở thành
Người Lính Quân Đội Quốc Gia – Một chọn lựa trọn vẹn dứt khoát. Cũng cần
nói thêm, người anh Phan Trọng Thiện (sinh năm 1930) cũng nối chí em,
nhập học Khóa 6 Trường Đà Lạt vào năm sau, 1952. Không những thế, sau
nầy nhạc phụ là Đại úy Bùi Phó Chí, năm 1955 đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 1 Đổ Bộ, tiền thân của Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu SĐ/TQLC/VNCH. Các em
sau 1954 nơi miền Nam cũng lần lượt gia nhập quân đội, Phan Trọng Sinh,
Phan Trọng Vĩnh vào Khóa 14 Trường Võ Bị Đà Lạt.
Tóm
lại, đấy là một gia tộc gồm toàn những Người Lính – Sĩ Quan Quân Đội
Quốc Gia (1948-1955) – Tướng Lãnh VNCH (1955-1975). Tổ Quốc Việt
Nam/Miền Nam tồn tại qua cơn bão lửa xuyên suốt từ trước 1954 đến 1975
là do nhận được sứ mạng gánh vác hy sinh của những thế hệ người Việt nầy
– Gia đình Trung tướng Phan Trọng Chinh là một điển hình cụ thể chung
nhất.
Ngày
9 Tháng 1, 1954 Sư đoàn 320 CS tấn công vùng Thượng Lào nhằm đánh lạc
hướng Bộ Tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Pháp đang tập trung vào mặt trận
Điện Biên Phủ sắp khai diễn (13/3/1954). Tiểu Đoàn 3 ND được không vận
đến bản Hiu Siu tăng cường Tiểu đoàn 6 ND đang bị áp lực nặng của phía
cộng sản. Ngày 14 Tháng 1, SĐCS 320 tập trung đánh TĐ3 nhằm phá vỡ thế
trận tăng viện.
Thiếu
tá Tiểu đoàn trưởng Mollo tử trận, tiểu đoàn đoàn phó và đa số sĩ quan
chỉ huy Việt, Pháp đồng bị thương vong. Riêng Thiếu úy Phan Trọng Chinh
giữ vững đội hình tác chiến; ông được thăng cấp khẩn cấp ngay tại mặt
trận, được chỉ định giữ chức Đại đội trưởng, chỉ huy thành phần còn lại
của tiểu đoàn, giữ vững trận địa chờ đợi Tiểu đoàn 7 nhảy xuống tăng
viện. Hai trung đoàn của SĐCS 320 dẫu quân số vượt trội cuối cùng phải
rút lui trước sức phản công của hai tiểu đoàn dù với TĐ 3 đã bị tổn thất
nặng.
Trận
chiến bản Hiu Siu nơi vùng Vùng Thượng Lào, năm tháng xa xôi kia thật
sự không mấy ai biết đến, nhớ lại cho dù người trong quân đội. Chỉ riêng
một người, Trung tá Đào Văn Hùng “Hùng Già”, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2
Dù (1966-1968), năm 1954 kia là một lính hạ sĩ luôn nhắc lại như chuyện
mới xẩy ra.. “Năm ấy, tớ là một anh cai, “Cai Hùng” tớ đánh trận bản Hiu
Siu với “Sous-lieutenant (Thiếu Úy) Chinh”...
Thiếu
úy/Trung úy Chinh đã chứng tỏ khả năng chỉ huy chiến trận từ ngày rất
trẻ, qua 29 Tháng 9, 1954 ông vinh thăng Đại úy, nhậm chức Tiểu đoàn
trưởng, chỉ huy trưởng đầu tiên của hệ thống chỉ huy người Việt – Tiểu
đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị được ân thưởng Giây Bảo Quốc Huân Chương Màu Tam
Hợp (Đỏ-Xanh-Vàng) của toàn Quân Lực Miền Nam do là đơn vị nòng cốt của
Liên đoàn Nhảy Dù, đã giữ vững miền Nam trong giai đoạn chuyển tiếp đầy
biến động nguy nan (1954, 1955) – Một trong những đơn vị tiểu đoàn của
lực lượng Nhảy Dù đã giữ vai trò quyết định lần thành hình Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa, 26 Tháng 10, 1955. Nhưng năng lực của Thiếu tá Phan
Trọng Chinh không chỉ giới hạn trong chức vụ chỉ huy đơn vị tác chiến.
Ông có khả năng tham mưu tổ chức cao hơn nữa.
Hai.
Tháng
8, 1956, Đại úy Phan Trọng Chinh bàn giao TĐ3ND cho Thiếu tá Nguyễn Văn
Lộc, được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Tham mưu trưởng Liên đoàn
Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Chánh Thi giữ chức Liên đoàn trưởng. Đây là
một quyết định quan trọng đối với đơn vị nhảy dù nói riêng và toàn thể
quân đội quốc gia nói chung: Tăng cường, mở rộng tổ chức, chỉ huy các
đơn vị tác chiến nhằm củng cố sức mạnh quốc phòng của Việt Nam Cộng Hòa,
một quốc gia mới thành lập, 26 Tháng 10, 1955.
Thiếu
tá Tham mưu trưởng Phan Trọng Chinh hoàn tất nhiệm vụ một các xuất sắc
trong một thời gian ngắn ngủi: Nhưng tiểu đoàn Nhảy Dù đơn lẻ trong Nam,
ngoài Bắc trước 20/7/1954 nay tổ chức thành một đại đơn vị, giữ nhiệm
vụ quan trọng: Lực lượng Tổng Trừ Bị của Việt Nam Cộng Hòa – Nhiệm vụ
được xác chứng từ 1956, 1960, 1968, 1972… cho đến ngày tàn cuộc
30/4/1975 – Người lính thuộc Sư đoàn Nhảy Dù là những chiến binh cuối
cùng thuộc lực lượng bảo vệ Sài Gòn nơi cầu Phan Thanh Giản, Ngã tư Bảy
Hiền… tại những giờ phút kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm 1955-1975.
Đơn vị được Thiếu tá Tham mưu trưởng Phan Trọng Chinh đặt thành giềng
mối từ những ngày thành lập, buổi khởi cuộc xây dựng nền Cộng Hòa ở miền
Nam.
Khả
năng tổ chức, chỉ huy, tham mưu của Thiếu tá Phan Trọng Chinh không
giới hạn với đơn vị Nhảy dù, giữa năm 1960, ông bàn giao chức vụ Tham
mưu trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù (Biên chế từ Liên Đoàn ND, 1959), nhận nhiệm
vụ mới, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân, lực lượng trừ bị chiến thuật cho
các vùng chiến thuật thay thế Thiếu tá Lữ Đình Sơn.
Giới
lãnh đạo nơi Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH tuy đã nhận ra khả
năng (quân sự) của giới sĩ quan trung cấp lúc bấy giờ, nhưng không nhìn
ra khuynh hướng/ước vọng chính trị của họ (rất khác xa với thành phần sĩ
quan (cũ) do quân đội Pháp huấn luyện, chỉ huy trước 20/7/1954) – Đảo
chính quân sự ngày 11 Tháng 11, 1960 nổ ra và bị thất bại do nhiều yếu
tố có tính cách căn bản cần thiết cho một cuộc binh biến chính trị
(không thuộc nội dung của bài viết nầy).
Cuộc
đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ đoàn Dù cầm đầu, Thiếu
tá Phan Trọng Chinh bị bắt giữ do có liên hệ từ trước ở Nhảy dù, và bị
đưa ra xét xử tại Tòa án Mặt trận, Tháng 7, 1963. Tòa án tuyên phạt ông
mức án 18 năm tù, Tháng 10 ông bị đưa đi thọ hình ở Côn Sơn.
Tuy
nhiên chưa đầy một tháng sau, cuộc đảo chính 1 Tháng 11, 1963 do Tướng
Dương Văn Minh cầm đầu thành công, Thiếu tá Chinh được trả tự do, trở về
lại quân đội, phục hồi cấp bậc cũ. Tháng 12 cuối năm 1963, thăng cấp
Trung tá, ông được cử lên vùng cao nguyên, giữ chức Tỉnh trưởng Pleiku
thay thế Trung tá Phạm Văn Út. Tháng 4, 1975, Dân biểu Phạm Văn Út là
người duy nhất không bỏ phiếu thuận để Tổng thống Trần Văn Hương chuyển
giao chức vụ cho Tướng Dương Văn Minh.
Trở
lại chuyện Trung tá Phan Trọng Chinh, Tháng 3, 1964, ông bàn giao chức
vụ Tỉnh trưởng Pleiku về lại Bộ Tổng tham mưu; Tháng 6, 1965, ông thăng
cấp Đại tá, và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ Binh; Ngày Quân
Lực 19 Tháng 6, 1966, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Thời gian giữ chức
Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ Binh, ông có dịp phát triển khả năng chỉ huy đơn
vị tác chiến chiến thuật, biến đổi Sư đoàn 25 BB từ một sư đoàn yếu
thành một đơn vị mạnh (tương tự như Sư đoàn 18 BB với Tướng Lê Minh
Đảo).
Nhưng
những “va chạm” giữa ông và giới chức cố vấn Mỹ, cũng tương tự với
thành phần chỉ huy Sư đoàn 25 Bộ Binh Mỹ (hoạt động chung trong vùng Hậu
Nghĩa, Tây Ninh) khiến ông không “được điểm” trong những đánh giá của
thành phần “cố vấn” đối với một vị tướng đã được tôi luyện trong chiến
tranh từ thập niên 1950; chưa nói những ảnh hưởng bởi di hại chính trị
sau hai lần binh biến 1961, 1963.
Tháng
1, 1968, Tướng Phan Trọng Chinh rời Sư đoàn 25 BB, tiếp giữ chức Tư
lệnh Phó Quân Đoàn III/Vùng 3 Chiến Thuật dưới quyền Trung tướng Đỗ Cao
Trí. Sự kiện nầy cho thấy lời cáo buộc ác ý Tướng Trí “kỳ thị Nam-Bắc”
là một điều vô lý, vì Tướng Trí đã luôn đặt Tướng Nguyễn Văn Hiếu giữ
những chức vụ quan trọng bên cạnh ông từ những ngày trước 1963; và nay
nhận sự phụ tá của Tướng Phan Trọng Chinh, Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ3ND ở
miền Bắc, khi ông nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND nơi miền Nam. Chúng
ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: Những Người Lính Lớn (thực sự)
không vấp phải những điều nhỏ nhặt, tiểu xảo.
Tháng
2, 1969, Tướng Chinh được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân
huấn thay thế Trung tướng Vĩnh Lộc. Đầu năm 1974, ông nhận chức vụ Chỉ
huy Trưởng trường Chỉ huy Tham mưu (Cơ sở của trường đặt tại khu quân sự
Long bình, Biên Hòa), tức là xuống cấp chỉ huy trong hệ thống Tổng cục
Quân Huấn/Nhưng ông không tỵ hiềm, phản đối với người đồng sự của mình,
Trung tướng Nguyễn Bảo Trị.
Ngày
30 Tháng 4, 1975 ông cùng gia đình di tản khỏi nước, định cư tại
Rockville, tiểu bang Maryland. Ngày 17 Tháng 11, 2014, ông từ trần tại
nơi định cư, hưởng thọ 83 tuổi trong lặng lẽ. Từ ngày rời khỏi nước, ông
không có tiếp xúc nào với cá nhân, tổ chức, đoàn thể thuộc Cộng đồng
người Việt Hải Ngoại. Ông giữ im lặng toàn diện tương tự như các Tướng
Nguyễn Đức Thắng, Ngô Quang Trưởng… Không một lời.
Kết Từ.
Như
trong phần Dẫn Nhập đã nhắc tới nhà lãnh đạo Liên Xô (1985-1991)
Mikhail Gorbachev, người đã góp phần (phần quyết định) thay đổi mối quan
hệ giữa Liên Xô với phương Tây sau nhiều thập niên căng thẳng và đối
đầu trong Chiến Tranh Lạnh từ sau 1945. Ngày 31/8/22 ông Mikhail
Gorbachev, từ trần ở tuổi 91 sau một thời gian mắc bệnh. Theo dư luận
của một số người Nga vốn thuộc đảng cộng sản Xô Viết, ông bị cáo buộc đã
làm sụp đổ Liên Bang Xô Viết, khiến nước Nga mất vị thế cường quốc một
lần có được dưới chế độ cộng sản (1922-1991).
Đúng,
sai thế nào, lịch sử và sự thật sẽ xác chứng đối với những lãnh đạo của
mỗi quốc gia. Tuy nhiên từ lần ra đi và lời cáo buộc đối với ông
Gorbachev, người viết liên tưởng tới những võ đoán hàm hồ đối với thành
phần lãnh đạo quân đội miền Nam mà với Cố Trung tướng Phan Trọng Chinh,
điển hình thế hệ tướng lãnh Quân Lực VNCH – Thế hệ tướng lãnh sinh trong
thập niên 1930 trực tiếp gánh vác sinh mệnh chính trị-quân sự miền Nam
suốt hai mươi năm bão lửa 1955-1975.
Họ
đã chứng thật, “Hào kiệt nước Nam không đời nào thiếu” với sáu vị tướng
lãnh tự sát cùng lần nước mất nhà tan 30/4/1975 – Những hy sinh quyết
tử khiến cả thế giới phải nhìn lại cuộc chiến đấu lẫm liệt cao thượng
của Quân Dân miền Nam. Cuộc chiến với những chiến thắng vang dội quân sử
nhân loại của năm 1972. Chiến thắng đạo quân xâm lược đi từ miền Bắc
được cả khối cộng sản yểm trợ trong khi người Mỹ rút quân, phủi tay.
Nhưng
tất cả đã bị chôn vùi với thất bại của ngày 30/4/1975 – Sự thất trận
tai họa nầy khiến người viết, người lính nối tiếp cuộc chiến của thế hệ
chỉ huy niên trưởng kia đặt nên câu hỏi giả thiết: Nếu như thế hệ những
Người Lính sinh vào những năm 1930 kia có sớm hơn một nửa thập kỷ nắm
quyền lãnh đạo QUỐC GIA VÀ QUÂN ĐỘI – Những Phan Trọng Chinh, Nguyễn Đức
Thắng, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Khoa Nam… đến với
lịch sử và Quân Đội từ trước những năm 1960 – Nếu được như thế, sẽ không
có binh biến 11/11/1960; đảo chánh 1/11/1963; Biến động Miền Trung
1966…
Cũng
không thế có những cáo buộc ngụy tạo từ báo chí, dư luận Mỹ: “Quân đội
VNCH tham nhũng”, bởi miền Nam đã phổ biến gương thanh liêm của “Nhất
Thắng-Nhì Chinh–Tam Thanh-Tứ Trưởng”; cũng không thể có những vu cáo hàm
hồ “gia đình trị” với lần lâm tử của Tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh Sư
đoàn 23 Bộ Binh cùng với Phu nhân Dương Thị Thanh trên bầu trời Đức Lập,
9 Tháng 8, 1968; hai anh em Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại tá Nguyễn Viết
Cần cùng tử thương nơi chốn trận tiền…
Và
còn rất nhiều. Rất nhiều nữa. Tất cả thực tế hy sinh nầy giúp chúng ta
có CHẮC hậu quả và hệ quả: Không thể nào có NGÀY UẤT HẬN 30/4/1975 – Mối
giả thiết không hề là ảo tưởng bởi Ai Cập chỉ cần một Nasser; Đại Hàn
cũng chỉ khởi động lần xây dựng nước với Phác Chánh Hy. Nhưng tất cả chỉ
là giả thiết, và Trung tướng Phan Trọng Chinh cùng bao Anh Hùng Liệt Sĩ
Miền Nam đã im lặng ra đi nào mấy ai hay?
California, 9/2022
Nhân nhìn lại “Giả Trá Lịch Sử” Tháng 9, năm 1945 tại Hà Nội.




No comments:
Post a Comment