Lê Phi Điểu
Một ngày cuối đông năm
1981, tôi đươc gọi tên ở lại trong trại không phải ra ngoài đi lao động.
Xin thưa các bạn! đây là trại giam Tù Cải Tạo Vĩnh Quang B. thuộc tỉnh
Vĩnh Phú miền Bắc Việt Nam. Trại do công an cộng sản quản lý. Theo
thông lệ của trại này, khi cán bộ từ ban giám thị trại giam xuống sân
tập họp của đám tù Cải Tạo là có chuyện …Thường thường là những chuyện
đem lại rắc rối cho anh em tù cải tạo, nhưng cũng có đôi khi thông báo
những tin vui cho vài người tù có người nhà thăm nuôi đang chờ ngoài khu
thăm viếng.
Tôi
đã có một lần bị gọi tên và bắt ở lại trại để lên Ban Giám Thị trại
giam làm việc. Làm việc ở đây tức là có vấn đề đối với ban an ninh trại
giam. Lần đó tôi bị nghi ngờ là người “iả” và gói “cứt” vứt lên chỗ gối
đầu của anh Thuận, Thuận là Đội Trưởng đôi 9 của tôi. (Xin lỗi qúi độc
gỉa vì phải dùng hai từ này.)Tôi cực lực phản đối là tôi không dại gì đi
làm chuyện đó vì đêm hôm qua họp đôi bình bầu để đánh gía từng người và
tôi là người bị cho là chay lười lao đông, hay khai bịnh để lánh nặng
tìm nhẹ . Cuối cùng tôi bị hạ khẩu phần ăn từ 18 kg (khoai, sắn, gạo)
xuống còn 13 kg một tháng. Cuối buổi họp bình bầu tôi lên tiếng phản đối
quyết liệt với Đôi Trưởng Thuận (cũng là người tù Cải Tạo được trại
chỉ định làm Đội Trưởng , Đôi 9 có khoảng 70 tù nhân ) Tôi nói rằng tôi
bị bịnh Hen Suyển nên khó thở, sức khỏe yếu kém do đó không thể làm
việc nặng như vác đá kè ao nuôi cá , đi khiêng gỗ, cưa xẽ gỗ ,đi gánh
hàng từ trại Vĩnh Quang B ra trại Vĩnh Quang A và ngược lại …Nhưng tôi
vẫn đi theo đội thường xuyên để nấu nước cho anh em “giải lao” cố giữ
chỉ tiêu số người tham gia lao động cao của Đội để không bị đánh gía
thấp so với các Đội khác . Những ngày nắng ấm, sức khỏe tốt tôi vẫn lao
động năng như bao nhiêu anh em khác . Tại sao lại hạ khẩu phần của tôi
xuống tối đa như vậy. Tôi kết luận“Các anh dã man lắm, đối với người bị
bịnh hen suyễn như tôi mà các anh cũng không nương tay, các anh vô nhân
đạo lắm!!!...”
Tôi nghĩ là tôi không “iả” và gói “cứt” ném lên đầu giường
đội trưởng nên tôi mạnh dạn bảo vệ mình bằng cách lý luận rằng “Tôi
không ngu dại gì mà đêm qua tôi vừa mới cự cãi to tiếng với anh Thuận mà
sáng nay tôi lại ném “cứt “lên đầu giường anh Thuận vì hành vi đó chẳng
khác gì tôi đi làm cái chuyện mà người ta cho rằng “Lạy ông tôi ở bụi
này”. Sau một hồi hăm dọa và vuốt ve dụ dỗ hãy tự giác khai ra. “Anh hay
người nào khác đã trả thù Đội Trưởng Thuận. Nói đi tôi sẽ cho anh về
láng nghỉ đi lao đông ngày hôm nay. Thấy tôi trả lời dứt khoát tôi
không ném “cứt” lên đầu giường anh Thuận và cũng không biết ai đã làm
chuyện đó. Cuối cùng cán bộ giám thị thả tôi ra và bắt về dọn vệ sinh
phòng giam.
Sáng nay ban giám thị kêu tên tôi và khoảng hơn mười người
nữa ở lại trại. Sau khi tất cả trại viên ra khỏi cổng đi lao động thì
Cán Bộ trại ra lịnh cho chúng tôi nhanh chóng về đem tất cả đồ đạc cá
nhân lên sân tập họp, sau đó bỏ ra đất cho cán bộ trại khám xét. Trong
lòng mọi người đều nghĩ rằng có ai đó trong số chúng tôi dấu diếm tài
liệu phản động hay đồ kim khí như dao, búa…Nên bị kiểm tra bất thình
lình. Sau khi vệ binh và quản giáo kiểm soát xong, không có ai vi phạm
nội qui như đã nói trên thì cán bộ giám thị trại mang hồ sơ đến và tuyên
bố là chúng tôi được trả tự do. Môt nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng
mọi người. Thế là gần sáu năm làm người tù khổ sai không bản án, ngày
mai chúng tôi sẽ được về sum họp với gia đình.
Từ nhà tù nhỏ tôi được thả vào nhà tù mới rộng hơn lớn hơn
trong phạm vi thành phố Hôi An quê tôi (Tôi bị quản chế hai năm tại địa
phương) Cho dù biết ngày mai đói khổ lầm than đang đón chờ chúng tôi
phiá trước, tôi biết khi chúng tôi trở lại đời sống ngoài xã hôi với hai
bàn tay trắng và một số tiền ít ỏi mà trại giam cấp để làm lộ phí khi
trở về trong lúc thân thể lại mang theo những bệnh tật hiểm nghèo vướng
phải khi lao động cật lực nơi núi rừng Bắc Việt Nam . Cuộc sống mới
ngoài trại giam chắc cũng sẽ có nhiều gian khổ và thiếu thốn khôn cùng.
Tuy nhiên chúng tôi ai nấy cùng đều hớn hở vui tươi. Ngay sau duyệt lại
danh sách, cán bộ trại gọi tên từng người lên văn phòng và hỏi địa chỉ
vợ con hoặc cha mẹ để ghi vào Giấy Ra Trại và cấp lộ phí cho chúng tôi
kèm theo lời khuyên là về địa phương phải cố gắng lao động tốt, tham gia
tích cực mọi công tác địa phương giao phó, đừng để phải vào trại giam
một lần nữa…Giấy Ra Trại của tôi có ghi nhận xét “Sức khỏe yếu kém,
bệnh tật …”
Tôi chọn điạ chỉ là nhà cha mẹ vợ tôi ở Ngã Tư Bảy Hiền Sài
Gòn (qua tìm hiểu tôi biết vợ con tôi đang ở với gia đình ông bà ngoại
của các cháu). Trong ngày hôm đó xe của Bộ Công An đưa chúng tôi đến ga
xe lửa Hàng Cỏ , chúng tôi ở lại nhà ga đến xế trưa . Sau gần 6 năm
trong trại giam đây là giây phút chúng tôi hít thở không khí trong lành
và tự do ( dù là tạm bợ) nên có vài anh tù cao niên đã cao hứng mua rượu
uống và có vẻ ngà ngà say khi lên tàu hỏa .Trong lúc chờ Tàu đi về Nam
tôi đi loanh hoanh trong ga và nhìn xem cảnh sinh hoạt của người dân và
việc mua bán , quán xá ở nhà ga lớn này ra sao . Ở thời điểm này tôi
thấy cách ăn mặc của người dân vẫn còn mộc mạc đơn sơ, quần áo may bằng
vải thô, vải ta trắng … Có người khoác thêm lên chiếc áo mưa cũ kỷ hay
ngững tấm nilon để che mưa khi ra ngoài trời. Quán xá thì chỉ có cửa
hàng ăn uống giản dị gồm cơm hay phở do Hợp Tác Xã địa phương tổ chức để
bán cho khách đợi tàu ở sân ga. Đói bụng nên tôi vào ngồi trong cửa
hàng ăn uống, gọi một tô phở, tôi chẳng nhớ là bao nhiêu tiền. Chờ mất
khoảng 15 phút thì người phục vụ mang ra một tô phở đầy nước nhưng chỉ
có vài ba lát thịt bò nhỏ xíu và mấy cọng hành tươi xanh xanh trên mặt.
Tôi bưng lên và hít hà vì đây là lần đầu tiên tôi được ăn phở nóng và có
người bưng tới bàn cho tôi. Bên cạnh tôi cũng có vài người khách ngồi
ăn, họ múc một muỗng bột ngọt đổ vào tô phở khoắng đều lên rôì mới ăn.
Tôi vô cùng ngạc nhiên nhưng không dám hỏi vì khi xưa đi hành quân tôi
để ý là bộ đội miền Bắc hay dùng bột ngọt nấu canh rau rừng và sau sáu
năm cưỡng chiếm miền Nam họ vẫn còn phải dùng bôt ngọt vì thiếu xương bò
xương heo …làm cho nước phở ngọt ngon hơn hay sao???Cuối cùng thì tàu
hỏa cũng đã vào sân ga và những người tù vừa được trả tự do như chúng
tôi cũng đã vôi vã lên tàu chọn lựa chỗ ngồi xen lẫn với những hành
khách bắt tàu xuôi Nam. Còi tàu rúc lên mấy hồi và bắt đầu thở hồng hộc
kéo theo khối lượng lớn hàng hóa của những người buôn bán và hành khách,
tàu ì ạch chạy về phương Nam.
Đây là lần thứ hai tôi nhìn lại phân nửa phiá Bắc của đất
nước Việt Nam thân yêu. Lần đầu là khi chúng tôi bị đưa tới Tân Cảng ở
Sài Gòn và bị dồn xuống hầm một chiếc tàu thủy lớn, tôi không biết tên,
sau khoảng hai ngày đêm tàu chạy ven biển, chiếc tàu đã cập cảng Hải
Phòng và tất cả chúng tôi được lịnh rời khỏi tàu, lên bờ tập họp lại
ngồi chờ lịnh.
Xin trình bày thêm là hai ngày đêm lênh đênh trên biển và cả
ngàn người bị nhốt dưới hầm tàu chật chội, âm u vì thiếu ánh sang, có
người bị tiêu chảy, bị ho hoặc bị các chứng bịnh khác hành hạ. Những
người tù tự động giúp đỡ nhau trong hoàn cảnh vô cùng hãi hùng bi đát
như địa ngục trần gian. Tới giờ ăn bọn lính canh đứng trên boong tàu
dùng dây thòng thức ăn gồm khoai sắn hay bo bo xuống cho đám tù lúc nhúc
ở dưới chia nhau. Chúng tôi không có nước uống nên lên tiếng yêu cầu
cho nước uống. Mấy tên cán bộ đứng trên boong tàu cầm ống nước xịt xuống
dưới hầm tàu cho chúng tôi hứng lấy mà dùng. Nước chảy tung toé ướt đẩm
sàn hẩm tàu. Nhiều người bị tiêu chảy không có chỗ để giải quyết, họ xổ
đại ra quần, mùi hôi thúi xông lên nồng nặc còn hơn mùi tử khí ở các
nhà xác ngày xưa. Hai ngày đêm nằm chen chúc như giòi bọ trong địa ngục
hầm tàu nên khi đưọc lên cảng Hải Phòng chúng tôi mừng thầm là đã có
thể hít thở khí trời một cách thỏa mái và bơm đầy sinh khí vào hai lá
phổi. Ở đây cán bộ đi theo có vẻ kiêu hãnh, đã cho chúng tôi biết là
chúng tôi đã vào cảng Hải Phòng. Tôi tự nhủ :( Hải Phòng miền đất văn
minh của Xã Hôi Chủ Nghiã mấy chục năm nay sao mà nghèo nàn lạc hậu đến
thế này!)
Tập họp điểm danh xong chúng tôi bị lùa vào mấy cái nhà kho ở
cảng và sau đó họ cho chúng tôi đi tắm rửa. Nói là đi tắm rửa chứ thực
ra là chúng tôi lội xuống một cái ao hơi rộng, nước đục ngầu và phân
trâu bò nổi lềnh bềnh, chúng tôi chỉ vục nước khoác lên người cho mát
chút đỉnh rồi thôi. Chúng tôi không thể tắm chung với mấy con trâu bò
đang ngâm mình dưới cái ao khá lớn dơ bẩn này. Hôm sau chúng tôi lại bị
nhốt vào các toa xe lửa bịt bùng mà thường ngày dùng để chở than và súc
vật. Chúng tôi bị chở ra vùng Việt Hồng thuộc tỉnh Yên BáI. Sắp đến nơi
khi tàu lửa dừng lại (tôi không nhớ là ga nào) Chúng tôi xuống xe và đi
bộ lên Việt Hồng Yên Bái. Trên đường đi môt số người đã ném đá vào chúng
tôi tỏ vẻ căm thù đối với những Sĩ Quan Tù Nhân của Việt Nam Cọng Hoà.
Trong mớ âm thanh reo hò hổn loạn, tôi nghe thấy được môt giọng của ai
đó đã vang lên trong lúc chúng tôi lầm lủi bước đi “Họ là những anh hùng
sa cơ đấy” Tiếng nói ấy dù không quá to lớn hay cường điệu nhưng cũng
đã làm cho những kẻ sa cơ như chúng cảm thấy vẫn còn có ngưòi kính trọng
chúng tôi, mặc dù chúng tôi là những quân nhân phải buông súng đầu hàng
theo lịnh. Trong lúc di chuyển trên xe lửa hay lết bộ theo dòng người
phờ phạc đói rách để đến nơi buộc chúng tôi phải đến, tôi luôn luôn có
thói quen cuả môt quân nhân tác chiến là quan sát và ghi nhận những hình
ảnh hai bên đường những nơi chúng tôi đi qua. Thật là buồn cười khi
nhìn thấy một bầy trâu năm,sáu con cùng một đám người đang cày xới một
đám ruộng mà đúng ra chỉ cần một con trâu với một anh thợ cày làm một
buổi là xong ngay.(Chắc nhóm thợ cày này nằm chung trong hợp tác xã nông
nghiệp địa phương) Nhà cửa hai bên đường là nhà tranh vách đất, đằng
trước hoăc đằng sau nhà đều có trồng vài giồng khoai lang , vài bụi sắn
hoặc một đám rau muống nhỏ xen kẻ nhau mà mục đích là để phụ thêm cho
vấn đề lương thực của chủ nhà. Chúng tôi cũng đi qua những trường học và
nhà giữ trẻ hoặc chợ búa, tôi không thể tưởng tượng nổi đó là một lớp
học hoặc là một nhà giữ trẻ. Những cái chòi tranh không có phên vách hay
tường gạch bao bọc mà nó chõng chơ còn thua cái chuồng trâu của người
miền Nam.Thế mà vì sao chúng tôi lại thất bại thảm hại thế này!!!
Sau hơn mười hai tiếng đồng hồ, xe lửa chở chúng tôi xuôi Nam
tới địa phận Huế và sau đó băng qua đèo Hải Vân để về Đà Nẵng. Mãi mê
man ngắm nhìn khung cảnh hai bên đường và ngọn đèo Hải Vân hùng vĩ tôi
quên mất là mình nên về Sài Gòn thăm vợ con trước hay xuống tại ga Đà
Nẵng để về Hội An thăm mẹ già đang ngày đêm khấn nguyện cho con trai sớm
thoát khỏi vòng lao lý và trở về sum họp với mẹ già nơi chốn quê xưa.
Tình mẫu tử thiêng liêng, tôi không muốn để mẹ tôi phải chờ đợi thêm
giây phút nào nữa. Tôi bất chấp nơi cho phép tôi trở về trên giấy tờ là
Sài Gòn chứ không phải Hôi An, tôi quyết định xuống ở ga Đà Nẵng và ra
bến xe để về nhà thăm mẹ tôi ngay.
Giây phút gặp lại mẹ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên. Bà đang
ngồi ủ rủ, có lẽ vì đang nhớ đến tôi. Tôi bước vào nhà với bộ đồ màu
xanh của trại tù phát và giả đò tằng hắng môt cái nhẹ để mẹ tôi biết có
người vào nhà. Mẹ tôi ngẫng đầu lên, thấy tôi bà ú ớ và muốn qụy xuống
ghế vì quá mừng rỡ. Tôi bước vội tới để đỡ bà ngồi ngay ngắn và ôm chầm
lấy bà để trấn an, sau đó mấy giây bà mới bình tỉnh trở lại. Mẹ tôi ở
một mình trong căn nhà thờ cổ xưa , các em tôi bận sinh kế nên thỉnh
thoảng mới ghé thăm bà . Sự trở về của tôi như là một liều thuốc bổ cấp
thời giúp cho mẹ tôi trở nên hoạt bát và vui vẻ hơn.
Những người hàng xóm nghe tin tôi vừa từ trại giam về đã cùng
nhau kéo đến nhà thăm tôi, bà con và bạn bè ngày xưa cũng lần lượt đến
thăm hỏi. Mọi người vui vẻ chúc mừng mẹ con tôi đoàn tụ sau nhiều năm xa
cách nhớ thương.
Ở nhà với mẹ được mấy hôm, bà mua trứng vịt lộn, đu đủ chín,
để tôi ăn nhằm xổ độc khi tôi ở núi rừng lao động khổ nhọc có thể mang
mầm bệnh trở về. Nghệ và mật ong bà viên thành hoàn, bà bắt tôi uống
hằng ngày để bồi dưỡng và đề phòng chống nước . Ôi! tình mẹ đối với tôi
bao la như trời biển. Ở lại với mẹ chưa được một tuần thì tôi nói với mẹ
tôi là tôi phải vào Sài gòn vì trên giấy tờ cho phép tôi về sum họp với
vợ con ở ngã tư Bảy Hiền chứ không phải là Hội An. Tôi nói với mẹ tôi
là tôi nhớ mẹ quá không biết sức khoẻ mẹ ra sao nên tôi đánh liều xuống
ga Đà Nẵng để về thăm mẹ trước vì tôi sợ vào Sài Gòn rồi sẽ bị quản chế
tại nhà, khó mà trở về thăm mẹ. Hơn nữa trong khi trở về chỉ hai bàn tay
trắng làm sao đủ tiền mua vé từ SG về quê thăm mẹ. Mẹ tôi gật đầu tỏ ý
thông cảm hoàn cảnh cuả tôi, nhưng khuôn mặt bà trở nên buồn bã kém
vui. Bà nói với tôi là tuần trước bà nằm thấy chiêm bao
rằng “tôi được ra trại và về thăm bà, và sau ít hôm thì tôi nói với bà
là tôi còn đi nữa chớ không phải ở lại nhà được lâu . Giấc mơ gì mà đúng
ghê hỉ! “.
Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào Sài Gòn để sum họp với vợ
con. Khi đi mẹ tôi cũng mượn cho tôi đưọc chút tiền để ăn uống dọc
đường và bà cũng không quên bỏ vào túi một chai dầu Nhị Thiên Đường và
dặn do tôi mang theo số mật ong mà bà đã viên sẵn, nhắc tôi nhớ uống
hằng ngày “tốt lắm đó “. Với bộ đồ xanh của trại tù tôi đi từ Đà Nẵng
vào tới Sài Gòn mà không phải trả tìền xe vì chủ xe và lơ xe thấy tôi là
người vừa mới ra tù, chẳng có tiền bạc gì nhiều nên họ đã không nhận
tiền chuyên chở tôi về đến Sài Gòn.
Khi về đến Sài Gòn gặp lại một số anh em cũng vừa mới trở về
họ đều nói là người dân vẫn còn thương mến bọn mình nên họ sẵn lòng giúp
đỡ không thu phí xe cộ mà đôi khi còn mua bánh mì, bánh ú cho mình ăn
ngay trên xe. Ôi! tấm lòng nhân ái, nhân hậu của người dân miền Nam thật
đáng trân trọng , đáng quý biết bao ! Mời quí độc giả đọc bài thơ thay
phần kết sau đây.
Khi Tôi Về.
Khi tôi về khu vườn xưa xơ xác
Giàn hoa xanh Thiên Lý chết lâu rồi
Cội mai già hiu hắt đứng chơi vơi
Tường vách đổ, ngói rơi đầy sân vắng
Khi tôi về, khu vườn xưa yên lặng
Như đời ai qua mấy chặng thăng trầm
Khi tôi về gió Bắc thổi căm căm
Mẹ ngồi đó, miệng lâm râm khấn nguyện
Bước vào nhà sau một phút lặng yên
Mẹ bật khóc khi lời nguyền đã tới
Con về đây thưa với mẹ một lời
Mẹ tha thứ vì tai trời ách nước
Chuyện đổi thay giữa đời ai biết được
Mộng ngày xưa! sau trước đã không thành
Và bây giờ còn một chút thanh danh
Con xin giữ với lòng thành muôn thuở
Bài viết này con kính dâng hương hồn mẹ. Mẹ đã un đúc cho con ý chí kiêu hùng của một con dân nước Việt.
Câu nói bất hủ của mẹ dạy cho con là không bao giờ phản bội quê hương “Ăn cơm nào phò chúa nấy”.
Seattle.
01/ 12 /năm 2016
Lê Phi Điểu
Nguồn XứQuảng.com
No comments:
Post a Comment