Saturday, August 12, 2023

CON ĐƯỜNG LAO KHỔ

Sông Lô Lê Nam Sơn lược dịch   

 
         Phóng tác theo tự truyện "the Battle of Kontum" của cựu đại tá Lục Quân Hoa Kỳ William S. Reeder, được đăng trên tạp chí Aviator VHPA 2009, Vol 27, số 2. Đây là một tạp chí của một số cựu chiến binh Hoa Kỳ chiến đấu tại mặt trận Kontum viết lại những gì họ đã trải qua tại mặt trận này.
Đường link nguyên bản bằng tiếng Anh là:
 
 
Tôi lược dịch câu chuyện đầy cảm động này là của một cựu đại tá Lục Quân Hoa Kỳ đã về hưu kể về thân phận tù binh của mình và những người lính VNCH bị sa cơ rơi vào tay của quân CS BắcViệt tại chiến trường miền Nam. Máu và nuớc mắt của họ đổ xuống trên đường bị áp giải hay trong các nhà tù, họ bị tra tấn, cùm kẹp đến kinh hoàng nhưng để được sống còn họ cứ phải đau đớn cam chịu đế rồi tiếp tục lây lất đi cho hết con đường lao khổ. Bị hành hạ đau đớn về thể xác, tủi nhục về tinh thần cùng với bao mối đe dọa khủng khiếp thường trực giáng xuống thân phận những kiếp tù binh khốn khổ này đã là như thế nào.
          Câu chuyện bắt đầu lúc ông đang mang cấp bực đại úy với chức vụ là phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra thuộc Căn cứ Halloway đồn trú cạnh phi trường Cù Hanh, Pleiku và trung úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Đình Xanh thuộc Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật cũng đồn trú tại Pleiku. Cùng với mình, trung úy Nguyễn Đình Xanh đã được tác giả trân trọng đưa vào câu chuyện đầy máu và nước mắt này.
            Ngày 07 Tháng 12 năm 1971, đại úy phi công trực thăng William S. Reeder bắt đầu nhiệm vụ đợt hai của mình tại Việt Nam. Lúc bấy giờ, chương trình Việt Nam hóa chiến tranh của Tổng thống Nixon đang được tiến hành, binh sĩ Hoa Kỳ ồ ạt rút khỏi VN, hầu hết gánh nặng cuộc chiến được trao lại cho QLVNCH. Kế hoạch rút quân tiến hành đúng như yêu cầu, hoạt động chủ lực cũng như du kích của cộng quân ở khắp chiến trường miền Nam giảm sút thấy rõ. Tuy nhiên trong những khu rừng già bên kia biên giới, thuộc vùng lãnh thổ của Lào và Campuchia, giới có thẩm quyền về quân sự, ai cũng biết, quân đội chính quy Bắc Việt đang ngấm ngầm củng cố lực lượng với âm mưu thôn tính. Qua những tiếp xúc tại MACV & SOG (Military Assistance Command Vietnam and Studies Observations Group = Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy yểm trợ quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam) đại úy William S. Reeder cũng cảm nhận được điều này.
             Quả vậy, sự yên tĩnh kéo dài chẳng được bao lâu. Mùa xuân 1972, bất thần cộng quân ồ ạt mở những đợt tấn công vào những căn cứ phòng thủ của quân lực VNCH, chúng phát động hàng loạt những cuộc tấn công quy mô trên khắp chiến trường miền nam. Lính Mỹ chúng tôi gọi đây là cuộc tấn công "mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive) mà người lính VNCH gọi là "Mùa Hè Đỏ Lửa". Cuộc tấn công này không mang ý nghĩa chiến lược như cái mà họ gọi "cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968".
         Tại vùng I chiến thuật, chúng xua quân vượt sông Bến Hải băng qua vùng phi quân sự, ải địa đầu giới tuyến của VNCH, đánh chiếm Quảng Trị, ở vùng III, từ bên kia biên giới Kampuchia chúng tiến đánh vào Bình Long, ngõ hầu làm bàn đạp cho mưu đồ tiến đánh thủ đô Sài Gòn sau này. Cùng lúc, trên cao nguyên trung phần, thuộc vùng II chiến thuật, từ những mật khu bên kia biên giới Lào và Campuchia chúng vượt biên giới tấn công ồ ạt vào những đơn vị biên phòng của QLVNCH hòng chiếm cho được Kontum cắt đứt vùng Cao Nguyên để chế ngự vùng duyên hải trung phần.
          Khởi đầu chúng cũng đạt được một số thành công, nhưng hầu hết các mục tiêu quan trọng đã bị từ chối. Ở vùng I chiến thuật, chúng chỉ tiến chiếm đến Quảng Trị, và đã bị đẩy lùi sau đó. Cũng vậy, Ở vùng III trận Bình Long và ở cao nguyên trung phần thuộc vùng II, lúc đầu chúng chỉ chiếm được một số tiền đồn xung quanh Kontum, nhưng rồi cũng bị đánh bại. Nói chung mọi thủ đoạn xâm lược của chúng đều bị bẻ gãy trước sức chống trả mãnh liệt của Quân lực VNCH qua sự yểm trợ hỏa lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn lại.
            Tờ mờ sáng ngày 09-5-1972, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh của QLVNCH ở Polei Klang nằm phía cực tây tỉnh Kontum gần biên giới Kampuchia đang bị địch quân ồ ạt tấn công bằng chiến xa có pháo yểm trợ và đang lâm vào tình trạng nguy kịch. Trên đường bay yểm trợ đợt 2, sắp đến mục tiêu, bất thần tôi thấy một chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào lượn thả bom thì bị bốc cháy bởi trúng đạn phòng không của địch. Chiếc Skyraider đâm nhào xuống đất nổ tung, may mắn, viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm và đang treo lơ lửng trên không bằng chiếc dù của mình.
          Làm sao có thể làm ngơ trước một đồng minh đang lâm nạn, tôi đã ba lần gọi về đơn vị khẩn thiết yêu cầu được phép tiếp cứu viên phi công thay vì thi hành nhiệm vụ đang được giao. Nhưng cả ba lần yêu cầu đều bị từ chối, thế là bó tay, tôi vô cùng uất ức vì đã không giúp được gì cho viên phi công bị lâm nạn kia trong lúc mình có thể. Uất thì uất vậy, nhưng vẫn phải tiếp tục nhiệm vụ chính của mình với nỗi xót xa canh cánh. Lẽ dĩ nhiên, lúc bấy giờ tôi đã chưa thấu hết được mức độ khẩn cấp tại chiến trận, nơi buộc tôi phải đến để thi hành nhiệm vụ. 
         Tôi bay vào mặt trận mà ngỡ như bay vào tổ ong bị động. Lúc ấy, nhiều xe tăng địch đã vượt qua những hàng kẽm gai phòng thủ, cộng quân tràn vào căn cứ, những quân nhân sống sót còn lại của đơn vị rút hết vào hầm chỉ huy cố thủ.Vừa triển khai tác xạ vừa nhận lệnh yểm trợ một chiếc trực thăng biệt phái có trang bị hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất, tôi thi hành đúng theo mệnh lệnh và hoàn tất tốt. Toàn bộ vũ khí được trang bị như súng máy, rocket, lựu đạn đã được tôi sử dụng tận tình.
          Tôi bay vội về  Kontum tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu như lần trước rồi cấp tốc chuyển hướng đến một mặt trận lớn hơn đang diễn ra tại một trại tiền đồn ngay tại vùng tam biên. Nơi này được gọi là Ben Het, Có một tiểu đoàn biên phòng của QLVNCH gồm 300 binh sĩ và sĩ quan cùng hai cố vấn Mỹ, Mark Truhan và Bob Sparks. Họ đã bị hai sư đoàn Bắc Việt tấn công có xe tăng hỗ trợ.
           Cất cánh từ Kontum để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày của mình, tôi đâu có ngờ, phi vụ thứ ba này cũng là phi vụ định mệnh của tôi. Tôi được lệnh hộ tống những chiếc máy bay trực thăng Huey chở tiếp tế vũ khí cho mặt trận Ben Het, vì cấp số đạn dược của đơn vị biên phòng này đã được sử dụng gần như cạn kiệt, ngay cả vũ khí chống chiến xa cũng hết sạch. Nhờ sự yểm trợ đắt lực của chúng tôi những chiếc Huey đã hoàn thành nhiệm vụ tiếp tế quan trọng của mình.
Sau nhiều đợt bay lượn vừa tránh né vừa tác xạ xuống mục tiêu, chiếc Cobra của tôi hùng dũng nhào lượn trong không gian mịt mù lửa khói, bỗng nó lảo đảo ngã nghiêng, tôi cố lấy lại thăng bằng nhưng nó không còn ngoan ngoản tuân theo sự điều khiển của mình, nó đã bị trúng đạn và chỉ trong giây phút đã bốc cháy, đâm nhào theo đường trôn ốc rồi chạm đất nổ tung ngay sau khi tôi và Tim, viên trung úy phụ tá bay cùng kịp thời thoát hiểm. Nhưng Tim chết sau buổi chiều hôm ấy vì bị thương nặng. Phải nói, Tim là một sĩ quan trẻ  xuất sắc nên tôi đã chọn anh làm trung đội trưởng (Platoon Leader) dưới quyền của mình và lẽ tất nhiên, kể từ khi về đơn vị anh luôn bay chung với tôi cho đến bây giờ. Tôi cũng bị thương nhưng cố lẩn trốn đến 3 ngày sau mới bị bắt.
             Dù đang trong tình trạng nửa chết nửa sống, tôi vẫn bị tra khảo, vừa bị gẫy xương lưng, vừa bị thương chân, máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra trong giày bốt quánh lại khô cứng. Tôi cũng không thể nào tự tiểu tiện hay đại tiện nên đã để nó tự ị ra quần, đã thế, tôi còn bị vô số vắt bám vào người hút máu, có con chui cả vào mũi, trông thật thảm hại. Ấy vậy mà bọn áp giải có tha đâu, hai cùi chỏ tôi bị chúng trói ngược ra sau bằng sợi dây, rồi cứ thế mà tra khảo đánh đập. Chúng xiết dây trói mạnh đến nỗi xương vai tôi bị trật cả khớp và cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy, đau đớn khôn cùng.
            Tra khảo miết rồi cũng chán, chúng trả lại tôi đôi giày đã bị lấy mất dây và vớ, áp giải tôi qua những lối mòn ngoằn ngoèo trong rừng rậm, tôi đau đớn lê lết theo chúng đến ba ngày liền mới đến được trại giam. Đôi bàn chân tôi lúc bấy giờ trông bầy hầy như hai cái Hamburger còn sống. Tôi ước đoán, trại giam này nằm đâu đó bên kia biên giới phía bắc lãnh thổ Campuchia. Trại này đúng là một điển hình của những trại giam mà ai là tù binh cũng đều trải qua. Trại làm bằng tre, nằm sâu trong rừng, chung quanh được chắn bởi hai hàng rào làm tường cũng bằng tre, ở giữa là một cái hào, nó chẳng khác nào như thành hào thời trung cổ, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Hoa Kỳ thời khai phá miền tây hoang dã.
           Dưới hào là những tre vót nhọn cắm sâu vào đất được phủ lềnh bềnh bởi lớp phân người hôi thối. Thiết tưởng, nếu ai đó bị rơi xuống không tự lên được thì thế nào cũng chết, không chết vì bị chông đâm vào cơ phận nguy hiểm thì cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì cũng chết dần vì bị nhiễm trùng. Một thân cây bắt ngang hào làm cầu vào trại, ai muốn qua phải cố mà giữ thăng bằng nếu không muốn bị ngã nhào. Bên trong hai hàng tường tre ấy là những cái cũi nhốt tù binh thấp lè tè cũng bằng tre.
             Tù binh nhiều nhất vẫn là những người lính VNCH, thứ đến là lính biệt kích Mỹ người Thượng (Mountainyards) và vỏn vẹn chỉ có hai lính Mỹ gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó chừng một tháng, tổng cộng cũng vài trăm. Với tù binh chúng đối xử tồi tệ còn hơn đối xử với thú vật, chân thì họ cùm cứng vào cùm gỗ trong cái cũi thấp lè tè với bao thương tích, bệnh tật và lẽ dĩ nhiên là lất lây đói khát. Tôi vì xương lưng gẫy, hể nằm xuống là đau, cũng không thể nào nằm nghiêng được nên đành phải ngủ ngồi. Đêm về, lũ chuột khốn nạn lục lọi khắp cũi, chúng tha hồ gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân, cũng bởi hai chân bị cùm, xương lưng bị gẫy khó có thể nhúc nhích nên tôi đành chịu trận. Thú thật, cho đến bây giờ tôi vẫn còn ghét chuột.
           Mỗi ngày một lần, không đúng giờ giấc, tù nhân được ra khỏi cũi để đi cầu, tù nhân nào bụng dạ không còn đủ khả năng kiềm chế thì cứ tha hồ mà tự phóng ra quần trước khi được tháo cùm để đi cầu, điều thảm hại là có rất nhiều tù nhân chúng tôi bị tiêu chảy nên cũng chẳng ai thèm để ý đến chuyện tự phóng ra quần này vì nó đã trở thành chuyện cơm bữa. Nói là nhà cầu cho lịch sự, chứ thực ra nó chỉ là vài cái hố được bắt ngang bởi mấy khúc cây và phủ hai bên bằng những lá cây rừng, thế thôi. Vấn đề là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu hay bị tiêu chảy đã không thể nhịn được để đi đến đấy như đã nói, nên đã phải ị tại chỗ, khiến cả khu vực đầy ắp phân người.
         Một số tù nhân bị thương hay bịnh nặng không đi được, thì cứ việc nằm dài trên những cái võng gần đó để tiện lợi khi có nhu cầu, còn ai đủ sức xuống được võng thì ráng mà lết đến hố, bằng không thì cứ nằm đó mà ị. Hậu quả là, cả khu vực quanh mấy cái hố la liệt phân người là phân người, nó nhiều đến đổi những tù nhân còn khỏe, muốn đi cầu phải tránh lắm mới đến được và lẽ dĩ nhiên, sau đó phải tự mình làm sạch bằng bất cứ cái gì.
             Nước uống của tù nhân được đựng trong những ống tre, dù họ bảo là nước đã được nấu chín, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy khi uống vào. Lương thực cũng là một vấn đề, chỉ có một món duy nhất là gạo nấu thành cơm và nắm lại từng nắm, mỗi nắm bằng trái cam, mỗi ngày họ phát 2 lần, lúc gần trưa một nắm và xế chiều một nắm. Thỉnh thoảng, tù nhân được họ phát cho những khúc rễ cây thế cơm, mà họ gọi là sắn dây, giống như rễ cây “yucca” ở trung Mỹ.
            Sụt mất 20 ký chỉ trong vài tuần lễ, trông tôi vừa kệch cỡm vừa khôi hài như một bộ xương di động có chùm râu dài. Suốt thời gian 5 tháng, tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào. Lẽ dĩ nhiên, không phải riêng tôi mà tù nhân nào cũng vậy. Có một tù nhân còn trẻ nằm chung cũi với tôi, anh bị thương nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ bao giờ, có lẽ trước khi bị bắt đồng đội anh đã băng cho thì phải, nhưng trong suốt thời gian chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng, thỉnh thoảng anh nhích băng lên thấy vết thương là một lổ sâu hoắm với mủ là mủ, tôi biết sẽ không bao giờ lành, tuy vẫn còn khỏe, nhưng tôi chắc anh sẽ không qua khỏi.
Tù binh chúng tôi lếch nhếch như những con thú dại, trong điều kiện bẩn thỉu, đói khổ và bệnh tật nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được vùi đại đâu đó phía bên ngoài trại.
             Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi, lom khom xếp hàng cùng với nhóm 25 tù binh VNCH và 1 tù binh Mỹ khác để nghe nói chuyện, chính lúc bấy giờ tôi mới biết trong nhóm tù binh này có một phi công bị bắn rơi cùng ngày với tôi khi anh đang bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang như tôi đã kể trên. Tên anh là Xanh, Trung úy Xanh người mà sau này, tôi không thể nào quên được. Viên trại trưởng đến nói chuyện rồi trấn an chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ được chuyển đến một nơi khác, thuận tiện hơn, sẽ được cho ăn no hơn, và được chăm sóc y tế.
 
Chẳng những thế, ông còn khôi hài cho chúng tôi một tin vui là là sẽ được quyền nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình, nếu có. Ông bảo, cuộc hành trình sắp tới sẽ kéo dài khoảng 11 ngày, và yêu cầu chúng tôi phải cố gắng di chuyển sao cho đến nơi. Lời yêu cầu “Phải cố gắng di chuyển sao cho đến nơi” của viên trưởng trại này chẳng làm tôi lưu tâm, vấn đề lưu tâm nhất trong hiện tại của tôi là, sẽ được chuyển đến một trại tương đối tốt hơn.
            Mấy ngày sau, bằng đôi chân trần của mình, lũ tù binh chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình, tất cả bị trói lại, người này trói cách người kia độ nửa thước bằng một sợi dây và cứ thế mà dặt dẹo di chuyển trông như con rêt đang bò dưới những lùm cây lá. Dù bị trói chúng vẫn không rời súng mà cứ kè chằm chặp phía sau, tuy nhiên, khi toán di chuyển được vài ngày thì chúng cởi trói. Thật ra, chẳng phải vì lệnh lạc mà cũng chẳng phải vì lòng nhân đạo, họ tự biết rằng chính tự bản thân lũ tù nhân chúng tôi còn không đủ sức để mà bước thì nói gì đến việc chạy trốn, hay cũng có thể vì nhịp độ di chuyển chậm cũng nên.
Sức tôi càng ngày càng đuối, phần vì thiếu chất, phần vì đủ thứ bệnh không tên hành hạ, thứ đến, là những vết thương bấy lâu không thuốc men đã làm độc và ngày càng tồi tệ. Lại nữa, những con vắt cũng chính là mối nguy trong hoàn cảnh thiếu dinh dưỡng này, chúng không chỉ hút máu mà còn gây bao viêm nhiễm do độc tố từ chúng truyền sang.
            Trung úy Xanh cũng nằm trong tình trạng bi thảm này nhưng nói chung vẫn còn đỡ hơn tôi. Hàng ngày, lê mỗi bước đi là cả một sự phấn đấu về thể xác lẫn tinh thần, nếu ai đó dừng lại không nối theo đoàn người, không bước tới nghĩa là người ấy sẽ chết. Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể tự kết liểu đời mình theo ý muốn bằng những hành động ngu xuẩn, nhưng khi đã rơi vào thân phận tù binh thì lại khác, bản năng sinh tồn tự nó mạnh mẽ làm sao, nó bắt người ta phải cam go chiến đấu từng giây, từng phút để được sống còn.
            Trong cuộc hành trình gian khổ này, nếu ai muốn chết thì quá dễ, cứ việc buông xuôi đầu hàng là sẽ được toại nguyện. Nhiều người đã làm vậy, họ gục ngã ngay những ngày đầu tiên trong trại hay trên bước đường di chuyển để rồi nằm xuống vĩnh viễn. Một số khác gắng sức lê theo cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Cứ hãy tưởng tượng, đang lúc mỏi mòn lê bước về phía trước, bỗng nghe súng nổ phía sau, cũng có nghĩa là, có một tù binh khốn nạn nào đó đang được thoát kiếp. Tính cho đến khi đoạn đường vác thánh giá này kết thúc, lũ tù binh chúng tôi đã bỏ rơi lại 6 mạng trong hoàn cảnh nói trên. Wayne Finch, người tù binh Mỹ thứ hai ngoài tôi cũng đã rơi vào trường hợp này.
            Cuộc hành trình không kéo dài 11 ngày như họ nói và đích đến cũng chả phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực như đã dự đoán mà là một lộ trình dài hun hút đầy gian khổ kéo lê thê hơn 3 tháng, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, vượt hàng mấy trăm dặm hướng ra bắc. Quả là ác mộng, một cơn ác mộng thật khủng khiếp. Mỗi bước đi của mỗi một tù nhân là mỗi bước gian nan đọa đày không bút mực nào kể xiết. Ngoài bệnh tiêu chảy ra, người tôi còn vướng phải 3 loại sốt rét khác cũng như vô số ký sinh trùng trong đường ruột!
          Tôi lê những bước đau đớn bởi những vết thương làm độc ngày càng tệ hại, tử thần cứ như muốn kề cận, cái chân bị thương thì cứ sưng phù lên với những vết nứt chảy mủ hôi hám vô cùng. Mỗi cuối ngày, khi kết thúc một đoạn đường rừng trên dưới 10 cây số là cả một phấn đấu cùng tột. Buổi sáng, ngay sau khi thức giấc cũng vậy, phải phấn đấu lắm mới đứng dậy được, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của người đè xuống, ôi sao là đau đớn.
           Trung-úy Xanh, người phi công của QLVNCH dù tự thân cũng không khá gì, nhưng không hiểu sao? bởi cảm tình hay vì cảm thông tôi là một trong hai người Mỹ lạc loài vì đâu đang có quê hương tự do thanh bình, có cuộc sống ấm no sung túc không chịu hưởng để qua chi cái đất nước chiến tranh chết chóc và khốn nạn này để mang họa vào thân? có lẽ là vậy cũng nên, nên chi suốt cuộc hành trình anh vẫn thường cạnh kề an ủi và giúp đỡ. Thỉnh thoảng anh khích lệ tôi bằng những lời lẽ chân tình, nhất là ở mặt tinh thần, anh thường quan tâm và làm những gì có thể để giúp tôi giữ được lạc quan mà củng cố niềm hy vọng. Chính vậy, dù tình trạng dẫu ngày càng tồi tệ, nhưng tôi không để mất hy vọng, kể cả cái ngày mà lý ra tôi phải chết, nếu như không có Xanh.
          Để được lạc quan hai tôi đã cố gắng duy trì đầu óc khôi hài, đây là việc làm không mấy đơn giản nhưng rõ là cần thiết. Ở hoàn cảnh này, tinh thần là yếu tố quan trọng, nó có khả năng quyết định sự sống còn, ngay cả khi tình trạng trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài trợ lực cho tinh thần, cho dù đau đớn và gian khổ Xanh vẫn thường hài hước với tôi bằng những hình ảnh trông vừa khôi hài vừa dị hợm đến khốn nạn của chính mình.
           Như đã nói, mỗi ngày, tôi thức dậy bằng tất cả ý chí để đứng lên mà bước tới, phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp bước trên đường mòn ngoằn ngoèo dài hun hút. Có lúc tưởng như không thể nào đứng dậy, nhưng không hiểu bằng phép lạ nào, tôi cứ vẫn đạt được mục tiêu của mỗi ngày, để rôi hôm sau lại tiếp tục kinh hoàng lập lại.
             Nhưng rồi ngày tệ hại nhất của tôi đã đến, lưỡi hái tử thần như đang lăm le phía trước, mắt tôi tự dưng hoa lên, tôi cố gắng hết mình nhưng sao cứ lảo đảo muốn ngã, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực, loạng quạng bước tới nhưng rồi lại chúi ngã, tôi nhắm nghiền mắt, cầu nguyện xin có thêm sức mạnh nhưng vẫn không đứng dậy được. Lực bất tòng tâm, ý chí thì còn, nhưng cơ thể thì đành chịu và tên vệ binh đến kia rồi, lưỡi hái tử thần đến kia rồi, hắn nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi vẫn nằm im bất động, hắn quát tháo ầm ỉ, tôi vẫn bất động. Xem như xong đời.
           Bất chợt Xanh xuất hiện, mặc cho tên vệ binh quát tháo xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước, anh cúi xuống nhìn tôi với vẻ mặt lo âu rồi đanh thép nhìn tên vệ binh bất chấp những lời đe dọa, anh cúi xuống vực tôi dậy, nối hai tay tôi qua cổ anh rồi kê cái lưng gầy gò của mình để tôi gục lên, với tư thế này, anh đã kéo lê tôi cho tới cuối ngày. Đôi lúc, cũng có anh em tù nhân khác thay thế, nhưng chung quy, gánh nặng trong ngày hôm ấy đã dồn hết lên vai anh. Quả là một con người phi thường, chỉ vì lòng nhân ái, chỉ vì tình nhân loại mà Xanh đã bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của mình để cứu lấy tôi.
              Rồi đến một đoạn phải qua một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá to được người ta dựng một thân cây lớn bắt ngang làm cầu,  tôi lạng quạng từng bước, cố giữ thăng bằng nhưng rõ là không còn sức mà giữ, mà ngay cả ý thức về thăng bằng cũng trốn đâu mất tiệt. Cái chân bị thương vô dụng đã hại tôi, nó kéo lệch tôi về một phía khiến người tôi chao đảo rớt tùm xuống nước. Lúc ấy Xanh và Wayne đang ở phía trước, vội vàng quay lại lội xuống nước kéo tôi lên bờ. Họ nài nỉ bọn vệ binh cho phép cả nhóm tạm dừng chân cho đến khi tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng lời nài nỉ đã bị từ chối.
          Xanh và Wayne quyết không chịu rời tôi, mãi cho đến khi đám vệ binh tiến tới, dí súng vào người và lôi cổ họ đi. Tôi lờ mờ thấy Xanh và Wayne vừa đi vừa ngoái đầu lại rồi khuất dần cùng với toán tù binh, tôi thầm biết là mình sẽ không bao giờ còn gặp họ nữa. Người đồng cảnh, ai mà không biết, ở trường hợp này xem như tôi bị bỏ lại để mà chết, như nhiều người đã bị. Trong phút giây còn lại ngắn ngủi này tôi chỉ biết cầu nguyện cho Xanh và nhắm mắt chờ đợi, chờ đợi cho đến khi nghe tiếng đoàng, thế là xong kiếp.
           Thế nhưng tiếng đoàng chờ đợi ấy đã không xảy ra, không hiểu do một phép lạ nào đã khiến cho đám cộng sản không có lương tâm này phải dừng tay tàn bạo, chúng đem tôi vào một trạm giao liên, rồi chăm sóc y tế, cho ăn uống và đồi xử dễ chịu hơn. Ngày qua ngày, tôi an dưởng ở đây được một thời gian ngắn, nhờ không phải di chuyển và được chích kháng sinh, sức khỏe tôi dần hồi phục, tôi đã có thể tự đứng dậy và đủ sức bước đi.
           Một hôm, chúng cho tôi  nhập bọn với một đoàn bộ đội đang di chuyển về Bắc, một tay vệ binh đã được chỉ định theo tôi làm công việc áp giải.
           Cuộc hành trình cũng gian khổ không kém gì những đoạn đường tôi đã đi qua, duy những gì kinh hoàng với tôi nhất thì đã được bỏ lại sau lưng. Một ngày nọ, khi đến một khúc quanh nhỏ, khuất tầm giám sát của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã vụt bỏ chạy vào rừng chui nhủi trốn thoát trong mấy bụi cây để rồi cuối cùng cũng bị hắn lùng xục bắt lại, tuy giận dữ, nhưng hắn đã không bắn, mà chỉ hung hãn chĩa súng sau lưng và ra lệnh tôi tiếp tục đi. Cuộc hành trình cứ vậy mà tiếp tục cho đến khi sắp tiến vào lãnh thổ miền Bắc, tôi được cho nhập với một nhóm tù binh VNCH khác, và cuối cùng hướng về Hà Nội. Sau khi trải qua mọi thủ tục cũng như những trại tù khác nhau, tôi được đưa tới Hỏa Lò, một nhà tù kiên cố dùng để nhốt tù binh Mỹ ngay trong lòng Hà Nội, đã được các tù binh Hoa Kỳ mỉa mai gọi là "Hanoi Hilton" (Khách sạn Hilton Hà Nội) và ở đó cho đến ngày được trao trả theo hiệp định.
             Trở về Hoa Kỳ, tôi đã cố công tìm hỏi tin tức về Xanh nhưng hoàn toàn không có kết quả. Tôi cũng có tìm gặp những quân nhân người Việt đang thụ huấn tại Hoa Kỳ nhưng cũng không ai biết gì. Sau 1975, miền Nam rơi vào tay cộng sản, tôi càng ra sức tìm kiếm càng chuốc lấy thất vọng.
          Vài năm sau, trong một cuộc hội ngộ với hai cựu tù nhân VNCH, 1 anh cùng đi chung toán tù binh nhứ nhất với tôi và 1 anh cùng toán thứ hai tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Ngoài những thăm hỏi xã giao, mừng tủi nhắc nhớ những ngày tù xưa, tôi đã nhờ hai anh giúp tôi trong việc tìm Xanh, nhưng rồi cũng không đi đến đâu. Họ cũng chỉ thông tin đến tôi qua những gì họ biết lời đồn đại, đại khái như, sau khi Sài Gòn thất thủ Xanh đã bị CS bắt lại và có thể đã bị chết trong tù, Thế nhưng, tôi vẫn nuôi hy vọng, tôi vẫn tiếp tục dò hỏi với những mong ít nhất cũng phải biết được những gì đã xảy ra với Xanh hay tệ lắm nắm được tin tức về những người thân của anh.
              Những năm gần đây tôi đã dùng mạng internet để tìm Xanh, lúc đầu không đâu vào đâu, bỗng một hôm tôi phát hiện được trang mạng của nhóm hoa tiêu khu trục A-1 Skyraider thuộc Không lực VNCH và được biết trong nhóm có cả những hoa tiêu cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Mừng quá, không để mất cơ hội, tôi liền nhắn ngay vào trang chủ là muốn tìm Xanh, Nguyễn Đình Xanh trung úy hoa tiêu khu trục A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật và cho số điện thoại của tôi. May quá, chỉ vài ngày sau là tôi nhận được hồi âm bằng Email. Điều bất ngờ là người hồi âm đó lại chính là Xanh, và ngay sau đó anh gọi điện thoại nói chuyện trực tiếp với tôi. Lần đầu tiên nghe lại giọng anh sau 35 năm biệt vô âm tín, thử tưởng tượng là tôi mừng rỡ đến như thế nào.
              Chúng tôi hẹn gặp nhau và chỉ một thời gian ngắn sau đó một cuộc hội ngộ đầy cảm động giữa tôi và Xanh ở miền Nam California. Thoạt đầu, mở cửa đón tôi là một người đàn ông á châu đứng tuổi, tóc điểm râm, ngay phút giây đầu tiên ấy, tôi ngờ ngợ tự vấn, có phải là Xanh đây không? ngờ ngợ thì ngờ ngợ vậy, mắt tôi đã không bị đánh lừa, tôi nhận ra ngay, đích thị là Xanh đây rồi chứ ai. Tôi ôm chầm lấy xanh, mừng mừng tủi tủi, những giọt lệ tràn lên mí mắt mà hạnh phúc dâng trào. Ôi, cho mãi đến ngày hôm nay, ở đất nước tự do này chúng tôi mới tìm lại được kể từ cái ngày tôi gục ngã đâu đó trên Trường Sơn có con đường mòn Hồ Chí Minh khốn kiếp, mắt nhòa lệ nhìn theo anh như là một thần hộ mạng của tôi đang bị vệ binh dí súng ép qua cầu mà lòng chứa chan đau đớn vì phải buộc lòng bỏ tôi nằm lại chờ chết. 
            Xanh ơi! Anh có biết rằng chính những gì anh đã cứu giúp tôi trong những chuỗi ngày đen tối nhất đã là nguồn lực vô biên để tôi phấn đấu cho sự sống còn, lòng nhân ái chứa chan ấy làm sao tôi có thể quên được. Những gì anh đã quên mình để 
giúp tôi sống sót tôi vẫn khắc ghi, chính nó đã chuyền tôi thêm nghị lực và ý chí hầu vượt qua bất cứ khó khăn nào trong suốt đoạn đường lao khổ còn lại trước khi được trả tự do.
          Nguyễn Đình Xanh, anh đã là một người Việt Nam tuyệt vời và bây giờ anh là một người Mỹ vĩ đại. Tôi mang ơn anh suốt đời và tôi cũng xin tri ân đời đã cho tôi tìm lại được người vĩ đại tuyệt vời này của tôi.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Sông Lô Lê Nam Sơn lược dịch   

 THÔNG BÁO V/v TỔ CHỨC BẦU CỬ TÂN BAN CHẤP HÀNH & TÂN BAN GIÁM SÁT KHU HỘI CỰU TNCT/VN NAM CALIFORNIA NHIỆM KỲ 2025 - 2028 -Tham chiếu Đ...