BÙI ĐỨC TÍNH
Ba mươi tháng Tư,Lại nhớ đời ly hương
Xót xa đau, lặng yên nhìn sông núi
Sông núi quê người khác quê hương
Năm sang năm,
Cứ đến ngày oan trái
Thắp nén hương lòng để nhớ thương.
Đất nước tôi!
Việt Nam, từ tháng Ba 1975, người dân miền Nam cũng đã phải trả cái giá cho Tự Do bằng nước mắt và máu xương của chính mình; trong một cuộc chiến mà họ đã không bắt đầu, và cũng đã không mong muốn. Họ đã phải chiến đấu; chỉ vì không muốn mất những gì đã có, những gì là của mình. Họ không muốn mất Tự Do và đất nước miền Nam!
Từ tháng Ba 1975, đoạn đường chiến tranh đã vào một khúc quanh khốc liệt mà phía trước lại là ngõ cụt, không có lối thoát. Đất nước Việt Nam mình thì đã có biết bao chuyện về tháng Ba, chuyện Tháng Ba Gãy Súng, với lắm tang thương, lắm tủi nhục. Và rồi, dù là bị bắt buộc đi trình diện, hay bị bắt, bước đi với súng giặc kề lưng. Tất cả đều là tù binh! Làm tù binh đều là nhận cái sống, và đã không chết như chiến hữu, chết trong chiến trận…
Chương 2 Xuân Quê Hương của Thuyền Đời, có đoạn kể lại rằng:
Rời khỏi trại tù, về với gia đình đã mấy tháng nay; tôi vẫn còn lắm thứ ngỡ ngàng, lắm điều xa lạ. Phố xá, láng giềng, bây giờ không còn giống với những hình ảnh thân yêu trong ký ức; trước khi miền Nam bị mất, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đất nước mất chủ quyền. Nhân dân mất quyền tự do. Láng giềng thay chủ. Chủ mới là gia đình hay thân quen của những người phục vụ cho chế độ mới, chế độ cộng sản. Những người chủ cũ đã bị nhà cầm quyền cưỡng bức phải bỏ nhà cửa ra đi. Họ phải vào sống trong các vùng hoang sơ. Chốn lưu đày này có tên gọi hoa mỹ là “Vùng Kinh Tế Mới.” Những căn nhà nào coi được mắt đối với kẻ thắng cuộc, đã bị tịch thu với bất cứ lý do nào đó mà họ muốn, …
Xã hội cộng sản gông cùm đời sống, trói buộc tư tưởng người dân. Người quen, và người chưa từng biết nhau, cùng giống nhau ánh mắt tránh né, đầy e dè, sợ sệt. Người ta trông như đang mang những mặt nạ. Những mặt nạ có cùng một khuôn mẫu. Chúng giống nhau nét u uất với mệt mỏi, mất niềm tin, hết hy vọng ở tương lai. Chúng nó có cùng nụ cười gượng gạo, cười chào lấy có.
Thế nhưng, cái khung cảnh quanh tôi, bây giờ, lại có rất nhiều thứ quen thuộc, không khác chi mấy, so với thời còn trong lao tù; nơi mà chế độ cộng sản gọi là “trại cải tạo.” Bây giờ, quanh quẩn nơi đây cũng lá cờ máu, cũng chữ vàng trên băng vải đỏ, cũng cái đài phát thanh. Cái đài phát thanh của nhà nước the thé giọng đọc chanh chua, huênh hoang với những ngôn từ tuyên truyền lừa mị, kỳ dị, chướng tai… Chúng nó chí chóe châm chích màng tai dân chúng từ sáng sớm đến khuya tối. Nơi đây, bây giờ cũng thế, cũng đêm “họp tổ” để “kiểm điểm,” “đấu tranh,” “đấu tố” ...
Mang xác thân trở về nơi phố cũ
Phố xưa đây, sao vẫn thấy ngỡ ngàng
Màu cờ máu vây kín mù ước vọng
Tự do đây? ... sao như chốn lao tù!
Từ tháng 8 năm 1954, đồng bào miền Bắc đã bỏ quê nhà để lánh nạn cộng sản mà di cư vào miền Nam tự do, trong chiến dịch có tên là “Đường Đến Tự Do” (Operation Passage to Freedom.) Ngay cả sau khi đã hết hạn di cư vào Nam, đồng bào mình vẫn liều mạng sống, bằng đường bộ hoặc ghe thuyền; bằng mọi cách để trốn khỏi chế độ cộng sản ở miền Bắc. Đến đầu năm 1956, đã có đến 927.000 người di cư vào sống trong miền Nam tự do. Thế rồi năm 75, người đã tìm được tự do nơi miền Nam, lại phải trốn chạy cộng sản thêm lần nữa; phải vượt biên và vượt biển tìm tự do. Lắm người, hai mươi năm đã phải hai lần biệt xứ. Biết bao người còn bị lưu đày, ở ngay trên đất nước của mình. Người ra đi như kẻ bị lưu đày nơi xứ lạ. Triệu người đã không sống sót để ghi lại những trang sử đen hãi hùng, khi Nhân Quyền bị đảng cưỡng đoạt...
Trong lịch sử, người Việt Nam chỉ rời bỏ quê hương vì đã bị dồn vào cùng đường, không còn lối thoát nào khác hơn. Họ bỏ nước ra đi không phải vì chiến tranh! … Suốt 20 năm chiến tranh, người Việt đã vẫn ở lại trên đất nước Việt Nam để chiến đấu chống lại quân cộng sản, đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ và quyền tự do của miền Nam.
Cuộc di cư vĩ đại đã chỉ xảy ra sau khi Sài Gòn bị sụp đổ, sau khi dứt tiếng súng, đã hết chiến tranh. Đồng bào Việt Nam chỉ phải bỏ nước ra đi sau khi cộng sản chiếm trọn Việt Nam. Họ đã phải rời bỏ quê hương Việt Nam chỉ vì cùng đường, chỉ vì không thể sống dưới chế độ cai trị bạo tàn của cộng sản Việt Nam … Ðây còn là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chọn được sống tự do; chống lại chế độ cộng sản bằng chính mạng sống của mình!”
Vì tự do hàng triệu đồng bào đã phải xa lìa quê hương!
Những người được Ơn Trên ban cho ơn phúc đến nơi an toàn và được định cư. Tất cả đều là những người may mắn. Điều may mắn nhất, đó là được làm người tự do, được sống như con người trên đất nước tôn trọng nhân quyền.
Tháng 4 lại trở về!
Mỗi năm vào tháng 4, khi hỏi lòng mình có còn nhớ, hay đã quên, hay không nên nhớ chi đến thuyền nhân, tỵ nạn… có lẽ lòng mình dù muốn hay không cũng phải nhìn nhận sự thật, dù có phũ phàng.
Cơn gió cũng có lúc đổi chiều!
Lòng người trải qua thời gian?
Nếu còn nhớ, thì chắc phải nhớ nhiều thứ lắm. Nhất là khi thấy thời gian chừng như đã qua nhanh hơn, càng tiếc và nhớ nhiều hơn. Nhớ và nuối tiếc những gì đã qua, đã mất mát. Thế nhưng, có những mất mát không gì thay thế được, mà thời gian cũng không thể mang vào quá khứ!
Sắp trọn 50 năm, nỗi đau, niềm nhớ vẫn là những vết thương đau của dân tộc đã chưa lành và sẽ không bao giờ lành; khi mà hàng năm, cứ vào ngày 30 tháng 4, quân cộng sản vẫn tàn nhẫn dẫm đạp lên mà nhảy nhót ăn mừng “Đại thắng mùa xuân.”
Bên cạnh nuối tiếc thường là ước mơ. Ước mơ của người tỵ nạn, thuyền nhân thì nhiều lắm. Ước mơ cho đất nước, dân tộc chừng như quá lớn lao, xa vời, để được nhìn thấy trong đoạn đời còn sót lại. Vòng thời gian đã không chậm lại, thoáng vụt qua. Gần 50 năm qua, lắm ước mơ chỉ vẫn là ước mơ, nói ra không biết có phải cũng là thừa và niềm vui tự do, hạnh phúc tan biến khi tỉnh giấc. Ước mơ chỉ đầy thêm tuyệt vọng! Có khi, chỉ mỗi một nguyện vọng được quỳ hôn đất thân yêu như trong hùng ca “Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu,” mà gần 50 năm qua đi vẫn là ngàn trùng xa cách.
Miền Nam đã mất Sài Gòn.
Tùy lòng người khi quay trở về, và cho dù có mật ngọt đầu môi, Sài Gòn hôm nay đã không còn là Sài Gòn khi chưa bị mất tên.
Ta mất thật rồi, Sài Gòn xưa vĩnh viễn chôn vùi!
30 tháng 4, 2024
Bùi Đức Tính
No comments:
Post a Comment