Nguyên Mai
Quan điểm chính trị thường đươc chia làm hai phe: bảo
thủ và cấp tiến. Người bảo thủ có nhiều quan điểm trái ngược với người
cấp tiến. Người cấp tiến còn gọi là "khuynh tả", có khi được cho là
"thân cộng". Chữ "liberal" được dùng với hàm ý miệt thị. Thật ra thì
không đơn giản như vậy.
Sự phân biện "tả", "hữu" và từ đó "khuynh tả", "khuynh hữu" xuất phát từ cuộc cách mạng Pháp năm 1789 khi các thành viên Quốc Hội
chia thành những người ủng hộ nhà vua bên phải tổng thống và những
người ủng hộ cuộc cách mạng ở bên trái. Cách sắp đặt này được xoá đi và
lập lại nhiều lần. Cho đến năm 1814 đa số những người theo chủ nghĩa cực
đoan đã chọn ngồi bên phải. Những người ủng hộ hiến pháp ngồi ở giữa
trong khi các thành viên độc lập ngồi bên trái. Các thuật ngữ "cực hữu"
và "cực tả" được sử dụng để mô tả các hệ tư tưởng khác nhau của hội
đồng.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, các thuật ngữ "tả" và "hữu"
gắn liền với các hệ tư tưởng chính trị và được sử dụng để mô tả niềm tin
chính trị của công dân, dần dần thay thế các thuật ngữ "đỏ" và "phản
động". Từ "tả" và "hữu" cũng được dùng như những lời miệt thị để công
kích nhau.
Theo Hans Jurgen Eysenck, các hệ tư tưởng chính trị được sắp xếp trong một biểu đồ như sau:
Trục ngang chia hai thái cực về quan niệm phân chia của
cải trong xã hội. Bên trái là quan niệm mọi người trong xã hội nên chung
sức với nhau để được hưởng đồng đều. Đây là quan niệm "làm theo năng
xuất, hưởng theo nhu cầu", gần với thuyết cộng sản. Bên phải là quan
niệm cơ hội được phân chia đồng đều. Người làm nhiều thì hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít. Đây là quan niệm kinh tế thị trường tự do, "có làm thì
mới có ăn", gần với thuyết tư bản (capitalism).
Tất cả mọi người đều có một quan điểm chính trị nằm ở
giữa hai trục này. Các lãnh tụ độc tài Cộng Sản nằm ở khung bên trái
phía trên. Các lãnh tụ phát-xit, như Hitler, cũng độc tài nhưng không
cộng sản thì nằm phía trên bên phải.
Chữ "liberal" xuất phát từ chữ "libre" có nghĩa là "tự
do". Ngày xưa có tiếng lóng "líp", như trong "ăn líp ba ga" là ăn thả
cửa. Hay "Líp đi" là cứ tự nhiên. Trong quan điểm chính trị, "liberal"
là người phóng khoáng, ủng hộ cải cách để thăng tiến con người.
Tất
cả chúng ta đều là "liberal" vì cùng chung một quan điểm sinh ra là
người tự do và có quyền sống tự do. Nếu chính phủ không ngăn cản thì với
thị trường tự do chúng ta có thể làm nên của cải và có một cuộc sống
sung túc. Đó là quan điểm tự do cổ điển (classic liberalism). Bắt đầu từ
những năm 1860, 1870, các nhà trí thức phát hiện rằng trong một xã hội
tự do, con người không có tự do. Bởi vì có những rào cản như sự nghèo
khổ, thất học, bệnh dịch, v.v... mà nền kinh tế thị trường không giải
quyết được. John Maynard Keyes cho rằng kinh tế thị trường không thể tự
điều chỉnh để đối phó với suy trầm. Vì thế cần phải có sự giúp đỡ của
chính phủ để người ta có thể vượt qua thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật,
già nua, để có một cuộc sống hoàn toàn tự do. Từ đó hình thành một hệ tư
tưởng gọi là tự do xã hội (social liberalism).
Người social liberal vẫn không muốn chính phủ có quá nhiều quyền hành hay quốc hữu hoá tất cả của cải. Nhưng chính phủ cần phải đầu tư vào xã hội, kích hoạt kinh tế để cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
Người social liberal vẫn không muốn chính phủ có quá nhiều quyền hành hay quốc hữu hoá tất cả của cải. Nhưng chính phủ cần phải đầu tư vào xã hội, kích hoạt kinh tế để cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
Nếu chính phủ phải nhúng tay vào để giúp người nghèo thì
người giàu không được hưởng gì trong những chương trình này và có phần
thiệt thòi vì phải góp phần từ tiền thuế mà họ đã đóng. Có vẻ không công
bằng vì giống như lấy của người giàu cho người nghèo như trong chuyện
Robinhood. Thật ra thì, các khoảng đầu tư vào xã hội góp phần thúc đẩy
kinh tế, và mọi người cùng được hưởng trong sự phát triển. Như các nhà
kinh tế học đã chứng minh, kinh tế thị trường không hoàn hảo, nếu để tự
do thì khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng xa. Khi người nghèo quá
nghèo thì họ không tiêu thụ, không góp phần cho kinh tế. Sự chênh lệch
giàu nghèo dễ gây nên xung đột, tạo ra chiến tranh. Chi bằng tạo cơ hội
cho những người không có điều kiện để mọi người cùng thăng tiến. Năm
1932, khi nước Mỹ trong cuộc đại suy trầm, còn gọi là "The Great
Depression", tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đề nghị "The New Deal",
lập ra các chương trình xã hội như Social Security, Medicare, v.v...
Tổng thống Roosevelt nói: "The test of our progress is not whether we
add more to the abundance of those who have much; it is whether we
provide enough for those who have too little." (tạm dịch, "Thành quả của
chúng ta không phải là chúng ta có cho thêm vào sự dư dả của những
người đã có nhiều; mà là liệu chúng ta có giúp đủ cho những người có quá
ít."). "The New Deal" mở ra một kỷ nguyên mới cho nước Mỹ, giúp nước Mỹ
phát triển mạnh, trở thành một cường quốc trên thế giới.
Khác với người cộng sản, người liberal không tin sở hữu
toàn dân, không tin quốc hữu hoá doanh nghiệp. Người liberal ủng hộ tư
hữu và tin rằng kinh tế thị trường sẽ tạo của cải và giúp cho mọi người
có một cuộc sống sung túc. Doanh nghiệp do tư nhân làm chủ. Chính phủ
giúp cạnh tranh công bằng và điều tiết nền kinh tế khi nó gặp khó khăn.
Nguyên Mai


No comments:
Post a Comment