( Hồi ức kinh tế mới)
Tg: Cao Hoàng
- Thời cuộc do người lớn tạo ra, nhưng lại kéo theo hàng triệu trẻ em như tôi vào vòng xoáy khốc liệt của áo cơm thời hậu chiến.
Cả trong mơ tôi cũng không hề nghĩ là có một ngày, tôi lại trở thành đứa trẻ ăn xin bất đắc dĩ.
Khoảng gần một năm sau khi tôi đặt chân lên vùng kinh tế mới .
Đó là vào một buổi chiều hè năm 1977.
Chiều hôm đó, sau một ngày vất vả trên rừng làm tiều phu. Hai cha con tôi quảy gánh củi trên vai về túp lều xiêu vẹo, trống trước, trống sau... Villa tranh đó là nơi hai cha con tôi tự dựng lên để trú ngụ từ khi mới lên vùng rừng thiêng nước độc này.
Căn villa tranh của chúng tôi nằm trên một triền đồi thoai thoải, nhìn xuống bao quát cả cánh đồng hoang toàn cỏ tranh, cỏ đế... cùng những bụi tre rừng chằng chịt và những đám cây bụi thấp. Nếu như, không có gian nan đeo đẳng mỗi ngày thì không gian nơi tôi ở, có lẽ cũng nên thơ lắm hổng chừng.
Tôi vừa đặt gánh củi xuống sân nhà, thì bất chợt nghe văng vẳng tiếng ồn ào vọng lại từ phía cánh đồng. Nhìn theo hướng phát ra những tiếng cười nói rộn rã, tôi thấy lố nhố khá đông người, cả nam và nữ đang í ới gọi nhau. Họ đang dựng những lán trại dã chiến ngoài đồng trống.
Rồi thì, những ngọn khói khi họ nấu ăn bắt đầu bay lãng đãng, vướng víu trên những mái tranh còn mới tinh hòa với sương khói mông mênh của buổi chiều tàn trên cánh đồng hoang vu.
Sau khi ra cái giếng cạn dội sơ ít nước lên người cho trôi lớp đất mồ hôi...Tôi thay bộ đồ cũ mèm, rách trước rách sau, rồi lững thững đi lần về phía cánh đồng, khi tới gần hơn thì mùi canh, mùi cá kho, mùi cơm chín thơm ngào ngạt... làm tôi thèm chảy nước miếng.
Tới nơi, tôi cứ đứng xớ rớ gần đó nhìn các chị tất bật dọn bữa cơm chiều. Nhiều anh thanh niên thì đang cùng nhau đóng mấy cái sạp bằng cây rừng để làm nơi chỗ nghỉ ngơi. Họ vừa làm vừa trò chuyện rất vui vẻ.
Một chị ngó ra thấy tôi đứng thập thò gần đó bèn ngoắc vô.
Chị hỏi: Em ở đâu tới đây?
Tôi chỉ tay lên triền đồi thấp rồi trả lời: Dạ! Nhà em ở trên cái đồi kia đó chị, em theo ba đi kinh tế mới, chỉ có hai cha con thôi. Trên này khổ lắm, nhiều bữa em và ba ăn toàn khoai mì độn với cơm, có hôm thì chỉ ăn bột mì ta luộc lên rồi chấm với muối hột giã nhuyễn, hay với mắm nêm. Bữa nào bán được củi thì mua ít gạo, thêm vài con cá khô về ăn...
Vài chị có lẽ xúc động khi nghe tôi nói vậy nên có chị rưng rưng nước mắt. Rồi chị đó nói tiếp: Tụi chị ở dưới làng cách đây khá xa. Cũng không ai dư dả gì, nhưng làm ruộng thì cũng có gạo ăn quanh năm, ít có ai phải ăn cơm độn như em. Mấy anh chị lên đây làm công tác xã hội chủ nghĩa 15 ngày, công việc là đắp đập. Ai đủ 18 tuổi là phải đi, nếu không thì bị phạt mệt lắm!
Tôi chỉ biết chống cằm ngồi nghe vì cũng không biết nói gì.
Chiều tàn dần, ánh mặt trời sắp khuất sau những rặng núi, sương khói mông lung, bàng bạc trên những cánh rừng, cánh đồng hoang khát cháy.
Tôi bất giác đưa tay gãi gãi đầu, đưa mắt nhìn chị ngồi gần tôi.
Tôi lí nhí: Dạ! Mấy anh chị ăn xong... thì...
Tôi ngập ngừng, ấp úng: Dạ! Mấy anh chị ăn xong nếu còn cơm cháy cho em xin về cho ba và em ăn, em chỉ xin cơm cháy còn dư thôi...
Tôi chưa kịp dứt lời thì một chị lên tiếng: Trời ơi...!!! Chị không cho cơm cháy đâu, mà cho em luôn cơm trắng với đồ ăn nè...
Dứt lời, chị ấy lăng xăng chạy ra bụi chuối rừng gần trại chặt lấy tàu lá chuối, rồi chị bới cơm đổ vô đó khá nhiều...
Tôi nói: Em xin ít thôi, vì chỉ có hai cha con...- Một chị ngắt lời: Em đang lớn, ráng ăn cho nhiều, để còn có sức mà lao động... Nhìn em kìa, ốm nhom, ốm nhách. Tội nghiệp quá!
Rồi chị ép tôi phải lấy hết phần cơm khá nhiều, một chị khác thì gói cho tôi vài con cá khô nướng, thêm một nhúm rau luộc.
Tôi cảm ơn và xin phép đi về tại trời sắp tối. Một chị nói vọng ra: Mai em cứ tới lấy cơm, mấy chị để dành cho, đừng có ngại gì nha em...
Tôi quay đi, vì nghe khóe mắt mình cay cay.
Cứ thế, sau một ngày trên rừng về là tôi lại ra chỗ mấy anh chị, có khi chẻ củi giùm họ, khi thì phụ lặt rau hay nhóm lửa... Hay mấy anh chị nhờ vả làm lặt vặt gì đó. Rồi các chị lại cho cơm trắng với thức ăn mang về.
Những bữa cơm ngon nhứt trần đời, không phải vì cơm trắng, canh ngọt hay cá kho thơm nức... mà vì, nó chan chứa tình cảm của những người xa lạ dành cho một đứa trẻ khốn khổ như tôi.
Có những buổi tối, tôi ra chỗ mấy anh chị đó chơi. Ngồi cùng họ bên đống lửa cháy bập bùng. Rồi nghe họ đàn hát, có người hát nhạc vàng tình cảm, có người hát nhạc đỏ. Hay có khi cùng hát một bài nào đó mà tôi không biết tên.
Ngày vui qua mau. Hết 15 ngày công tác, rồi cũng đến lúc họ rời đi. Tôi không ra chào tạm biệt, mà tôi chỉ đứng xa xa ven bìa rừng, lẻ loi và cô độc như một con chim nhỏ lạc bầy.
Tôi lặng lẽ nhìn theo đoàn người mỗi lúc mỗi xa dần cuối con đường mòn dẫn về làng. Bóng họ mờ dần rồi khuất hẳn sau những bụi cây và đám tre rừng xanh ngắt.
Cánh đồng hoang, cánh rừng trở lại quạnh hiu như đã từng hiu quạnh muôn đời. Tiếng con mang tác... tác... đâu đó trong đám cỏ tranh nghe thật buồn, vài con chim bay về đậu trên tàn cây, chúng nghiêng ngó nhìn tôi, một thanh thiếu niên đầu bù tóc rối, áo quần rách rưới hệt như một con bù nhìn rơm ngoài ruộng. Còn thân hình còm cõi do thiếu ăn nên chỉ như đứa trẻ mới 12, 13 tuổi. Khi mới cách đó vài năm tôi còn là chú bé trắng trẻo, xinh xắn đầy hồn nhiên của tuổi học trò.
Tự nhiên cảm thấy một nỗi trống vắng, chơi vơi và hụt hẫng như vừa đánh mất thứ gì đó. Tôi lặng lẽ quay về căn chòi tranh lụp xụp, tả tơi... hệt như cuộc đời tôi. Nhưng nó là nơi che mưa nắng và che chở cho hai cha con trong những ngày mưa rừng tầm tã, hay những đêm sương mù lạnh lẽo phủ kín không gian trên núi rừng của một thời đói khát, gian nan... trói chặt cuộc đời những người lớn thua cuộc và cả những đứa trẻ chưa kịp lớn như tôi.
No comments:
Post a Comment