Nhà thơ Nguyễn Quốc Thái - hoạ sĩ Trịnh Cung - nhà văn Văn - Quang – nhà văn Song Thao - nhà báo Hà Túc Đạo - nhà báo Nguyễn Khắc Nhân (Nhà hàng Givral, Sàigòn, 2001)
Tôi
sống ở Sài Gòn 20 năm và xa Sài Gòn đã 30 năm. Mỗi khi nhớ tới quê nhà,
Sài Gòn vẫn như một đốm sáng không bao giờ tắt. Có lẽ vào độ tuổi thanh
niên, độ tuổi mà cuộc sống mãnh liệt nhất, tôi đã gắn bó với Sài Gòn.
Biết bao chuyện để nhớ. Nhất là vào thời điểm tháng tư.
Tôi
không xa Sài Gòn vào tháng 4 năm đó. Không một toan tính nào trong rất
nhiều toan tính được hanh thông. Ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài
Gòn, tôi vẫn còn nguyên tại nhà. Nhà tôi ở Thị Nghè, một trong những mũi
tiến công của địch quân. Chín năm trước đây, năm 2005, khi tờ Việt
Mercury ở San Jose ra số đặc biệt 30 năm nhìn lại ngày mất Sài Gòn,
Nguyễn Xuân Hoàng có hú tôi viết bài cho anh. Ngày đó, tôi đã ôn lại giờ
phút Sài Gòn bị dày vò. “Tiếng chân người, tiếng nói xôn xao từ ngoài
đường vọng vào ầm ĩ. Tôi chẳng buồn nhìn ra ngoài. Chiếc cổng sắt im lìm
bỗng có tiếng gõ mạnh. Tôi mở chiếc lỗ nhỏ trên cánh cửa kín mít nhìn
ra. La Phương! Tôi vội vàng mở cửa. Người ký giả kỳ cựu của làng báo Sài
Gòn uể oải bước vào. Chẳng ai buồn nói. Chỉ mới mấy bữa trước La Phương
còn lạc quan vào một giải pháp trung lập. Cuộc chiến có trên 20 năm
tuổi sẽ được kết thúc bằng một giải pháp có thể chấp nhận được cho cả
hai phía. Người cựu ký giả của hãng thông tấn Pháp AFP có liên hệ nhiều
với người Pháp đã khẳng định một cách lạc quan như vậy. Tình hình chính
trị mấy ngày qua như càng ngày càng xấu đi. Ba Tổng Thống trong vài ngày
là một chỉ dấu không tốt đẹp gì. Hy vọng đặt cả vào một Dương Văn Minh
được lòng nhiều phe phái. La Phương nhún vai, lắc đầu. Moa cũng không
hiểu sao nữa! Ngồi một lúc, La Phương ngơ ngẩn ra về…Nghe thấy tiếng xe
tăng chạy ngoài đường, tôi vội ra coi thử xem sao. Hai chiếc đầy nhóc
lính cộng sản đứng giương cao lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phần
phật bay theo gió đang tiến vào Saigon theo đường Hùng Vương dẫn tới cầu
Thị Nghè. Bỗng tôi nghe thấy tiếng súng ở phía cầu. Mọi người nhốn
nháo. Những thanh niên đeo băng đỏ, mặt đằng đằng, chạy tới chạy lui.
Khu chợ đồ Mỹ tự phát bên lề đường như đàn kiến bị phá vỡ tổ. Chỉ một
lúc, đâu lại vào đấy. Người ta kháo nhau về mấy tiếng súng vừa qua. Lính
giữ cầu đã nổ súng vào đoàn xe và bộ đội trên xe đã bắn lại. Xác chết
còn nằm trên cầu. Những người đi coi về kể lại như kể về một chuyện xảy
ra trên màn ảnh. Tôi đứng nhìn khu chợ càng ngày càng phình ra. Họ bán
những đồ Mỹ hôi được bằng cách phá kho Tân Cảng ở gần đó. Đồ dùng hằng
hà sa số đủ thứ. Bàn ghế, dụng cụ văn phòng, máy lạnh, quạt máy, kem
đánh răng, sữa bột, bánh kẹo, đồ chơi, đồ nhà bếp… Giá cả rẻ rề. Chỉ mấy
ngày trước giá đồ Mỹ còn vắt vẻo trên cao, chẳng phải ai cũng mua được.
Bây giờ đồ Mỹ lê la dưới đường, giá cũng sát sạt dưới đường. Người mua
kẻ bán bận bịu như không hề biết là họ đang bị kéo đi theo một khúc
quanh của lịch sử. Khúc quanh gắt dữ dằn”.
Đời
tôi cũng quanh theo khi vào giữa tháng 5, tôi xách chiếc túi nhỏ tới
trường Trưng Vương trình diện đi “học tập cải tạo”. Đó là lần thứ nhất
tôi xa Sài Gòn. Chẳng kịp nhỏ được một giọt nước mắt. Cải tạo (sic) về,
chúng tôi như những con kiến bị vây khổn, chỉ tính đường thoát đi xa.
Mãi tới mười năm sau, tôi mới thực sự xa Sài Gòn. Lần này tôi mới có
nước mắt, không biết là nước mắt vui hay buồn!
![]() |
| Quảng cáo thuốc lá CAPSTAN trên tạp chí Bách Khoa |
Sài
Gòn đến với tôi trước khi tôi tới Sài Gòn. Cuối thập niên 1940, ông anh
họ con một ông bác tôi, từ Sài Gòn ra Hà Nội chơi. Anh em tôi cứ ngơ
ngẩn khi nghe ông anh nói tiếng Sài Gòn trong lúc chơi đùa với nhau.
“Tìm” được ông anh Sài Gòn nói là “kiếm” khi chúng tôi chơi trò trốn
tìm. “Được” lại gọi là “đặng”. “Thằng ấy” thành “thẳng”. Và tiếng “ủa”
ông anh tôi thốt ra thường xuyên khiến chúng tôi cười ngất. Ngày đầu ở
Sài Gòn, thấy một đám cãi nhau ngay trước cửa nhà ở đường Lê Thánh Tôn,
gần chợ Bến Thành, tôi chạy ra coi. Hai bà buôn bán la lối, xỉa xói kịch
liệt. Tôi dỏng tai ra nghe. Những âm thanh lạ lùng hình như không phải
là tiếng Việt. Khi trở vào nhà, ông bác tôi hỏi mấy người đó gây nhau
chuyện chi vậy, tôi ngây ngô trả lời: “Cháu chẳng hiểu họ nói gì!”. Ông
bác tôi cười ngất thằng cháu Bắc Kỳ di cư ngồ ngộ! Mới nghe thì thấy
giọng Sài Gòn cũng ngồ ngộ. Cái giọng như một thứ trái cây chín nẫu,
nhẽo nhẹt nhưng thơm ngọt tình thân. Ông Hải Phan có những phân tích kỹ
lưỡng về cái giọng Sài Gòn: “Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết
liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước,
bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao
như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang, sang
sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng
nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu... Người miền khác có thích
hay khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen”
này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu
“Thôi, tôi dzìa nghen!” . Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dzìa hen!”. Nói
chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói
“Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!”. “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết
thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì
vui, quay đầu sang đứa kế bên lên tiếng “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu
thoải mái…Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm,
lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” . Mà
“dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người
Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông
ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen,
kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà, “coi dzậy mà hổng phải
dzậy”.
Sống
lâu với Sài gòn, đã quen với cái giọng Sài Gòn, thấy dễ thương chi lạ.
Nhất là nghe người con gái Sài Gòn thủ thỉ tiếng Sài Gòn. Những đứa trẻ
di cư năm 1954 đó, sống với Sài Gòn, chơi với bạn bè Sài Gòn, lớn lên bồ
với con gái Sài Gòn, thấy giọng Sài Gòn nghe rất hợp với những thủ thỉ
tâm tình. Nhiều ông bạn Bắc Kỳ di cư của tôi chỉ vì một cái giọng mà
rước về nguyên một con người. Ông M.Q.H. diễn tả sự khác biệt này bằng
một hình ảnh: “Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có
thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ổi đào Hà Nội thơm lừng, ngọt
ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ
nhắm được tí là hết. Ổi sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và
thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể
chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt, nghe qua là chảy nước miếng. Con
gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là…chảy nước miếng!”.
![]() |
| Quảng cáo kem đánh răng HYNOS. |
Sài
Gòn dần dần thân tình, thấm vào máu, nằm trong tim của lũ chúng tôi.
Vậy nên tới bây giờ, nhớ về quê hương, chỉ nhớ tới Sài Gòn. Tôi đã bao
lần định trách khéo ông Du Tử Lê đã làm chết tim tôi khi nghe bản nhạc
“Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn” được phổ từ thơ của ổng. Vậy mà bao lần gặp ông,
khi ở Cali, khi ở Montreal, tôi chẳng thốt ra lời được. Những địa danh
Thị Nghè, Xa Lộ, Hàng Xanh làm tôi chết điếng nỗi nhớ nhà.
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
đêm về trên bánh xe qua
nhớ em Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khíu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang: quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
đêm về trên vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?
Sài
Gòn, cái nôi của tuổi mới lớn, là những chói chang trong mỗi chúng tôi.
Tuổi trẻ chúng tôi ở đó. Tình yêu đầu của chúng tôi ở đó. Mảng đời tươi
vui nhất của chúng tôi ở đó. Dễ gì quên được. Nhà văn Lý Thụy Ý cũng
không bao giờ quên: “Sài Gòn của một thời tôi mới lớn, những “con đường
tình ta đi” Duy Tân, Trần Quý Cáp, Tú Xương, Công Lý. Những chiều bát
phố Lê Lợi, Tự Do. Những rạp ciné. Món bánh tôm hẻm Casino. Những xe bò
viên Nguyễn Thiện Thuật. Bánh mì thịt trước chợ Trương Minh Giảng, gỏi
đu đủ - khô bò - nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur)…Sài Gòn của
tôi “sáng nắng chiều mưa”. Mưa như được lập trình sẵn. Hoặc chiều hoặc
sáng, có khi… cùng giờ nên người Sài Gòn có thể nhởn nhơ bát phố khi
“cơn mưa qua”, rất ít khi mưa như… đòi nợ! Nắng Sài Gòn không quá gắt.
Có lẽ nhờ thế nên mới chợt mát chỉ qua màu áo lụa Hà Đông. Sài Gòn của
tôi có những ngôi trường đi vào thơ và nhạc như Văn Khoa, Luật, Gia
Long, Trưng Vương, những con đường địa chỉ báo như Lê Lai, Phạm Ngũ Lão…
Hồn đất và hồn người quyện nhau hồn hậu, chân tình…Sài Gòn của tôi trẻ -
luôn luôn trẻ. Không phải vì thiếu phố cổ hay người Sài Gòn không thích
“ra vẻ cụ” mà vì Sài Gòn luôn luôn mới, hồn nhiên và dễ thương, không
điệu đà, kệch cỡm. Sài Gòn của tôi còn nhiều hơn thế. Không diễn tả hết
dù văn hoa cách mấy. Không lớn lao gì, kỷ niệm chỉ chứa đầy ngăn cặp học
trò. Sự ồn ào sống động, dễ thương của vùng đất và con người. Đi xa, cứ
về đến cầu Sài Gòn hay cầu Bình Điền là coi như đến nhà. Như bạn bè
cùng trang lứa, tôi giữ Sài Gòn như giữ chính cuộc đời mình. Khóc một
ngày khi thương xá Tam Đa bị thiêu rụi. Thức một đêm khi Eden bị đập
bỏ”.
![]() |
| Bảng quảng cáo sữa BÔNG TRẮNG |
Sài
Gòn ngày nay đang bị cắt lìa khỏi quá khứ. Những thương xá Tam Đa, hành
lang Eden, đường Tự Do còn níu chăng những bước chân bát phố của chúng
tôi một thời hoa mộng. Những Pagode, Brodard, Givral ngày xưa nay đã bị
cày nát, mất máu. Có một lần, về với Sài Gòn, ngồi lại với bạn bè còn
lại tại Givral, tôi đã như được sống lại thời xưa cũ. Nếu cần khóc, chắc
tôi cũng khóc được, nhưng ngày đó tôi chỉ lâng lâng như một thời quá
khứ bỗng vụt dậy, khẽ lay vai tôi, ấn chìm hồn tôi xuống. Givral nay
không còn nữa. Ngày nghe tin Givral bị khai tử cùng với hành làng Eden,
nhà sách Xuân Thu, tôi đã lặng đi. Bạn bè cũ ngày đó, nay biền biệt. Nhà
thơ Đỗ Trung Quân tiếc nuối. “Givral khai trương đồng thời với tòa nhà
Vincom Center. Nó vẫn nằm ở vị trí cũ. Nhưng, tất nhiên, nó không còn
như cũ. Một Givral mới với một lịch sử đi qua quá sâu đậm với người Sài
Gòn. Những ai nặng hoài niệm một không gian ấm cúng kiểu Tây hẳn sẽ hoàn
toàn lạ lẫm với Givral hôm nay, kiến trúc tổng thể của khối nhà Vincom
pha trộn kiến trúc Á- Âu, nó phảng phất đường nét của kiến trúc đâu đó
trên đảo quốc Singapore. Givral mới cũng xóa hẳn phong cách kiểu Pháp đã
có hơn nửa thế kỷ của nó. Giờ đây, dù lộng lẫy, nó chỉ như một quán cà
phê hộp có bán bánh ngọt. Thế thôi! Hóa ra muốn làm văn hóa, hay tìm lại
một không gian mà lịch sử tình cờ để lại nơi đây, không dễ dàng chút
nào. Nó đòi hỏi những người tiếp quản, và tiếp tục nó cần nhiều điều hơn
chỉ là nơi “xơi bánh ngọt – uống cà phê”.
Sài
Gòn đã mất dấu. Lâu lắm tôi không về lại Sài Gòn. Song thân tôi đã lần
lượt theo nhau đi trong hai năm liền. Đó là hai lần cuối cùng tôi về lại
Sài Gòn, để sống những giờ phút buồn bã của chia lìa. Cũng đã trên chục
năm. Ngày đó, Sài Gòn mới chỉ mất quán Cái Chùa. Nhìn trên mạng
internet thấy những hình ảnh diêm dúa của Sài Gòn ngày nay, tôi thấy hụt
hẫng. Trát son trát phấn, Sài Gòn như xa lìa chính mình. Không còn là
Sài Gòn của chúng tôi. Ông Nguyễn Hậu, một người mới từ Bắc vào Sài Gòn,
cũng thấy tiếc Sài Gòn xưa, Sài Gòn thời đích thực là Sài Gòn. “Sài Gòn
xưa thật đẹp, văn minh và thanh bình với những con người hiền lành, mộ
đạo. Nếu không có những bức ảnh tư liệu mà mỗi ngày càng được người ta
chia sẻ càng nhiều, không có hàng ngàn những bản thu âm trước 1975 về
dòng nhạc trữ tình Sài Gòn đã một thời lên tới đỉnh cao của văn hóa/
nghệ thuật, rồi các kiệt tác văn chương…, những người sau này ắt hẳn
chẳng bao giờ tin vào điều đó – Hòn ngọc Viễn Đông – vì sách giáo khoa
không nói như vậy. Tôi đến với mảnh đất này với tâm thế của một người
hiền lành và tôi cũng nhanh chóng nhận ra mình chưa đủ tử tế và hiền như
Sài Gòn. Tôi tri ân Sài Gòn như đất mẹ thứ hai đã cho tôi biết bao điều
tốt đẹp, đã dung dưỡng và trao cho tôi những điều thật tử tế. Tôi đến
và ở lại Sài Gòn không chỉ vì mưu sinh, một ước mơ ngông cuồng nữa, mà
vì tôi yêu, tôi thấy mình thuộc về mảnh đất này. Tôi cũng biết nhiều
người xứ tôi đã làm cho Sài Gòn dữ và biến dạng đi từng ngày. Tôi chỉ có
tâm nguyện một ngày còn ở lại nơi này là một ngày gieo xuống những hạt
mầm lành, gieo xuống sự tử tế và gìn giữ những hạt mầm tử tế còn sót
lại… Tôi chỉ là một tay Bắc Kỳ lạc thời, tơ tưởng và hướng đến cái đẹp
và sự tử tế. Tôi tin vào những giá trị bền vững theo thời gian và trên
con đường ngược chiều ấy tôi tìm thấy hay nói đúng hơn là nhận ra những
người cũng ấp ôm một điều tốt đẹp nào đó cũng đang cố gắng đi ngược
chiều đồng loại. Tôi nhớ hoài một câu nói của người bạn đời của mình:
“Đêm hỗn mang thắp hỏa châu đi tìm bộ lạc”… Có lần một người bạn Sài Gòn
mà tôi rất quý mến nói “anh thật sự là một người Sài Gòn”, với tôi, đó
là lời khen tặng mà tôi trân trọng vô ngần và có thể nói là hãnh diện
nhất (Có lẽ là không xấu hổ với những tiền bối đến đây từ những năm 54
và rất được người Sài Gòn yêu mến)”.
Cái
mà Sài Gòn làm được là đã thu phục được chân tâm của những con người ở
bên kia vĩ tuyến. Chỉ bằng sự văn minh và đáng yêu của chính mình. Chắc
chúng ta hầu như ai cũng biết về giai thoại nhà văn Dương Thu Hương đã
ngồi khóc trên vỉa hè Sài Gòn ngày bà theo đoàn quân tiến vào Sài Gòn.
Bà đã trả lời nhà báo Đinh Quang Anh Thái của báo Việt Tide vào cuối năm
2007: “ Khóc thì tôi có hai lần khóc. Lần thứ nhất khi đội quân chiến
thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân
chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của
tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa
rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều
được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao
giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và
đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương
tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ông Thái đừng quên
rằng, ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý.
Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được
tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung
Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có
nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ
ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con
người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào,
Pháp, Anh, Mỹ . . .nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh.
Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm
hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà
dân tộc Việt Nam phạm phải”.
![]() |
| Chợ Bến Thành |
Sự
hàm hồ của lịch sử đã cướp đi cái tên Sài Gòn. Sài Gòn ngày nay đang
đội vòng gai. Nhưng cái tên Sài Gòn vẫn mãi mãi ở trong lòng người dân
Việt, nhất là trong sâu thẳm tâm trí của chúng tôi, những đứa con của
Sài Gòn.
SONG THAO
04/2014
Website: www.songthao.com





No comments:
Post a Comment