Phạm Văn Thành

Lê Thiện Quang, người tù đi qua các trại Bạch Đằng, Phan Đăng Lưu và
Chí Hòa (Sài Gòn), Z30D Hàm Tân, A20 Phú Yên, Trung Ương 5 Đầm Đùn Lam
Sơn và Ba Sao Phủ Lý Nam Hà. Cựu Biệt Kích Nha Kỹ Thuật Quân Lực VNCH,
thất bại Mission no 1 (đánh sập tượng đài hồ chí minh ở Sàigòn năm
1992). Án tuyên 14 năm. Gốc Công giáo La Vang. Đột tử một cách khó hiểu
sau khi mãn án tù vài năm...
1993
Tháng 6, thời kỳ gay gắt của việc kết cung. Một buổi chiều, người sĩ
quan chấp pháp mặc đồ dân sự nói giọng nam đợi tôi ở một căn phòng trên
tầng ba của dãy thẩm vấn điều tra B34 Bộ Nội Vụ 2. Hai sĩ quan áp giải
đóng lại cánh cửa màu vàng nhạt sau khi tôi đã ngồi xuống chiếc ghế đối
diện vơí người sĩ quan thẩm vấn, ngăn cách bởi một chiếc bàn gỗ.
Trên bàn hai chiếc gạt tàn thủy tinh lớn còn lam nham vài đầu tàn thuốc
đã ngắt khói, một khay inox vơí 4 cái tách màu trắng đục sạch sẽ, một
bình trà… tất cả đều bằng sứ.
Đây là ngươì sĩ quan của cục an ninh điều tra A 24, người duy nhất nói
giọng miền nam mà tôi biết được kể từ khi bị bắt và qua nhiều buổi thẩm
tra. Trong hầu hết các buổi thẩm tra khác, ông làm nhiệm vụ thư ký và
rất it khi lên tiếng. Hôm nay ông đến một mình.
Một mình ngồi với tôi sau khi nói hai sĩ quan bảo vệ rời khỏi vị trí
trực đợi ở chiếc ghế kê sát ngay cửa phòng, lối hàng lang. Tôi nhìn
những vật dụng bằng sành sứ và thủy tinh, thoáng hiểu là đã có một sự
thay đổi nào đó rất quan trọng trong quan hệ tình cảm giữa ông và tôi vì
nguyên tắc, tất cả các vật dụng trong lúc thẩm tra như bút, ly cốc uống
nước, gạt tàn thuốc lá … đều phải là bằng nhựa hoăc bằng gỗ và người sĩ
quan cảnh vệ với súng ngắn luôn luôn ngồi trực ở cửa ra hành lang.
Đây là một sự không bình thường.
Ông với tay kéo bình trà, nhẹ nhàng lật ngửa và rót trà ra hai tách, câu
mời vắn gọn bằng giọng miền nam mà tôi dường như nghe rất quen. Cầm
tách trà đưa lên miệng nhấp, mùi thơm của trà búp không pha tạp làm tôi
cảm thấy dễ chịu. Xa xa, tiếng ồn của các loại xe hai bánh vọng qua
khung cửa sổ, những âm thanh tôi đã rất thèm được nghe từ mấy tháng nay.
- Anh sắp ra toà. Từ nay đến khi ra toà tôi sẽ ghé vào đây mỗi 4 hay 5
ngày một lần. Tôi sẽ gọi anh lên đây và ai làm việc nấy. Chuyện kết cung
của anh sẽ do mấy anh em khác làm. Tôi gặp anh, nguyên tắc là làm việc
bổ xung cho bản cung…
Tôi yên lặng, thấy không cần thiết để hỏi lý do.
- Tôi nghĩ anh sẽ có vài giờ thoải mái khi anh rời buồng giam!
Tôi nói nhỏ lời cám ơn rồi hướng mắt ra vòm cửa sổ, nơi nếu đứng bên
cạnh ngạch cửa, có thể nhìn thấy ngã sáu Cộng Hoà với con đường Hồng
Thập Tự nhiều cây cao cổ thụ dẫn ra tận vườn Bách Thú, nơi những năm 80
tôi thường ngủ ngồi trên chiếc xích lô cà tàng vào những buổi trưa nắng
gắt.
- Anh sống ở Sài gòn nhiều năm không?
Tôi thấy ấm lòng khi nghe ông ta nói hai chữ Sàigòn. Xoay xoay tách trà tôi đáp: « Không nhiều, thưa ông! Đâu hai, ba năm. »
- Ba tui tập kết, tui sanh ngoải!
Ngần ngừ một chút, ông tiếp: « Việc mấy anh làm, tôi và anh sẽ không nói
đến chuyện đúng hay sai! Anh có lý tưởng của anh. Tôi có bổn phận của
tôi. Gặp nhau trong bối cảnh này, anh và tôi là hai thằng đàn ông, cùng
là yêu mến mảnh đất này. Chấm hết … »
Ngừng một chút nữa, ông chậm rãi:
- Có điều tôi muốn hỏi anh một chuyện ngoài lề, không liên quan gì đến
vụ án của anh. Anh không trả lời cũng không sao, nhưng nếu trả lời, tôi
xin anh trả lời thật lòng. Chuyện này chỉ tôi và anh biết…
- Xin ông cứ hỏi, trả lời được tôi sẽ trả lời.
- Anh biết anh Nguyễn Thanh Vân ở Mỹ?
- Thưa không!
- Anh biết anh Trịnh?
-Thưa không?
- Anh biết Phú Cam?
- Thưa biết!
- Anh biết Jim Mạnh Quỳnh?
- Thưa không?
- Hoàng duy Hùng?
- Thưa không?
- Lê Thiện Quang?
- Thưa không?
- Lạ nhỉ!..
Viên sĩ quan an ninh phản gián không dấu được nét tư lự đăm chiêu. Tôi nói thêm: «Tôi thật sự không biết những người ấy …»
- Tất cả các anh đều là người công giáo! Trong vòng chưa đầy một năm, 5
vụ án hải ngoại xâm nhập vào Sàigòn chủ yếu đều là người công giáo, toàn
công giáo 54 Quảng Bình và Phát Diệm! Với tôi cũng như bên điều tra,
đều nghĩ rằng các anh có liên đới chặt chẽ vơí nhau, nhưng suốt quá
trình thẩm cung, lại không hề thấy sự nói kết … vì thế tôi mới hỏi trực
tiếp anh. Tôi nghĩ anh không cần dấu tôi điều này …
- Vợ tôi người công giáo!... sắp là vợ thì đúng hơn – Người sĩ quan thẩm
tra có vẻ bối rối, chắc ông nghĩ là tôi đang xem các câu hỏi của ông là
… nghiệp vụ - Ông tiếp.
- Niềm tin của các anh thật lạ lùng! Bà nhà tôi cũng vậy. Suốt thơì gian
thẩm cung anh, tôi thấy suy nghĩ của anh và bà nhà tôi rất giống nhau …
có một điều gì đấy mãnh liệt, làm các anh vượt lên cả nỗi sợ chết. Điều
này làm tôi lạ lùng và thật sự là không thể không kính trọng!
... Câu chuyện rồi chìm vào những lo toan cho buổi ra tòa. Tôi không
biết họ đối xử vơí tôi ra sao vì sự cương quyết không nhận luật sư của
mình. Chắc chắn là tôi chẳng được quyền cãi tay đôi với họ. Những suy
luận và lo lắng về hai án tử hình không biết sẽ rơi vào ai, vào Phạm
Dũng, vào Ngọc Đăng hay vào tôi. Người đầu vụ là Trần Tư thì đã trực
tiếp làm chim mồi cho cánh an ninh phản gián bắt Moris Đỗ Hườn và anh em
vào từ Nha Trang, điều này qua 6 tháng vần cung, tôi đã có thể chắp nối
được để hiểu chắc chắn hai bản án tử sẽ không rơi vào Trần Tư. Tôi hoàn
toàn không biết là chính tôi cũng dính bẫy hỏa mù, vì họ đã không dám
tử hình ai trong hoàn cảnh ấy (1992/1993), dù tôi là bị bắt trực tiếp
tại nơi tập trung gần như toàn bộ thuốc nổ đã chế tác thành mìn với số
lượng chóng mặt!
…
Cho đến khi chiếc xe U Oát chở đàn tù từ Chí Hòa lăn bánh vào sân trại A
20. Từ trong cổng khu cách ly tôi nhìn thấy giáo sư Đoàn Viết Hoạt và
dáng người không lẫn vào đâu được của Lê Thiện Quang. Tôi nhận được Lê
Thiện Quang là nhờ ở mấy bài viết của mấy tờ báo Pháp Luật hay Thanh
Niên, Tuổi Trẻ gì đó… có hình rất rõ của Lê Thiện Quang với một dáng
đứng có một không hai trước toà cộng sản. Dáng đứng ấy, không khí phách
ắt không thể nào dám thể hiện. Tôi "kết" ngay cái dáng người ấy nên mọi
hành vi cử chỉ của Lê Thiện Quang tôi đều kín đáo săm soi.
Nơi cần cổ thân hình cường tráng ấy có đeo một sợi dây dù và cây thánh
giá gỗ đã lên nước nâu bóng. Cây thánh giá chỉ bằng gần cỡ ngón tay út.
Mỗi bữa ăn, dù thanh đạm đến đâu, người đàn ông ấy cũng nhẹ nhàng làm
dấu thánh giá trưóc khi cầm đũa. Hơn một năm ở A 20 như vậy cho đến ngày
nổ ra vụ «nổi loạn» tháng 10.1994, sau gần ba tuần cùm giam họ tống tôi
lên chiếc xe đặc chủng bọc thép bít bùng để đi bắc.
Từ nhà cùm bước ra, bóng Quang đã đổ dài trên nền sân dưới ánh nắng ban
mai. Bên cạnh Quang là Phạm anh Dũng, Tu sĩ Mai đắc Chương, cựu nghị
viên Trần văn Lương, cựu đại úy Đỗ hồng Vân, Michel Nguyễn Muôn. Trên cỗ
xe trần ai ấy có năm người Thiên Chúa giáo là Tu sĩ Đồng Công Mai đắc
Chương, cựu nghị viên Trần văn Lương, Biêt Kích Lê Thiện Quang và tôi
cùng Nguyễn ngọc Đăng là hai « việt kiều »!
10 người trong chiếc xe đầy ải, sống dở chết dở sau hơn 20 giờ cùm xích,
ôm chiếu đứng trước buồng tù 2A của trại 5 Lam Sơn Đầm Đùn vào lúc 4h
sáng, bắt đầu một cuộc sống cùng cực nghiệt ngã nơi được mệnh danh là «
chỉ có tù, tập kết và...khỉ là sống được » (1).
Nơi trại tù này, trong khu biệt giam sực nức mùi hoa cẩm chướng, lay-ơn…
hàng ngày tôi ngồi bệt dưới thềm xi măng cùng với hai người cùng khổ
khác, Lê Thiện Quang và Trần văn Lương với mâm cơm chỉ có nước muối và
vài cọng rau bẩn. Mâm cơm có thể đếm được từng hạt cơm quí báu, dù đã
ngả màu vàng ố.
Hàng ngày, hàng bữa, anh vẫn lặng lẽ làm dấu thánh giá trước khi cầm
đũa. Ân cần, thanh thản, nhẹ nhàng và kiên trì … trước bất cứ sự nhiễu
động nhìn ngó nào, hình sự giết người hay quản giáo cuồng cộng vô thần. Ở
anh, cách biểu dương đức tin ấy đã gần như một sự sống của cuộc đời.
Một cuộc đời chan hoà yêu thương với anh em, dứt khoát với sự ác và
nghiêm khắc với chính mình.
Sống với anh được hơn 4 năm thì tôi bị trục xuất (về Pháp). Buổi sáng
bất ngờ từ giã, anh ném cho tôi chiếc áo còn lành lặn nhất không bị đóng
bản mực "Cải Tạo". Ra phòng xét đồ, chiếc áo ấy bị giữ lại cùng hai đầu
đạn mà Đinh văn Bé lấy được từ thân xác ông Hoàng cơ Minh lúc đào xác
và vùi chôn lại lần hai (1987); hai đầu đạn AK tôi dấu dưới đế giày đã
gần 6 năm, không biết phía an ninh VC họ làm gì với hai chiếc đầu đạn ấy
cùng chiếc áo ân tình của Lê Thiện Quang?
Giờ đây, ngồi viết những giòng này về một ngươì anh đáng kính, người
đồng chí kiên trinh và là người đồng đạo chân thành. Tình cảm dây lên
như sóng sông rộng dài bát ngát...
Anh đã bỏ chúng tôi lại trên hành trình trăm lối. Nơi anh đến chắc chắn
phải là vùng ánh sáng của một niềm tin vĩ đại. Nơi ấy, chắc chắn anh vẫn
giữ nụ cười khoan dung hòa ái với anh em, như niềm tin bất khả chuyển
lay của anh về một sự sống vĩnh hằng sau cái chết của xác thân hư tàn.
Nơi anh đến, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ quên được những tháng ngày lao
tù đói khát và rét lạnh nơi vùng đất hiểm hốc Lam Sơn đầy chướng khí.
Nơi có những đêm cả đám tù từ miền nam đều không ngủ được vì quá đói và
quá rét! Nơi mà miền nam không bao giờ có! Miền nam, nơi không bao giờ
con người có thể đối xử với nhau được như vậy!
Tạ ơn đất trời đã cho chúng ta quen biết nhau, hơn nữa, đã thương mến
nhau như hoăc hơn cả tình ruột thịt. Miếng cơm nhà tù Thanh Hoá thời
1995 rất to và rất nặng! Chiếc « cần cẩu cân cơm » chỉ nghiêng ngửa vài
ly thôi là đã có thể xảy ra án mạng nơi các đội tù hình sự… vậy mà trong
suốt tháng đầu tiên khi đặt chân ra đất bắc, chén cơm của anh lúc nào
cũng vơi đi một muỗng đầy để gạt sang cho tôi! « Út lớn con lại vừa ra
cùm, thêm chút nào hay chút nấy. Anh quen rồi … ». Ba anh em ngồi vơí
nhau, sáu cái đầu gối chỏng trơ bên ba khuôn mặt tái mét vì sự cộng
hưởng của đói và rét. Họ không cho chúng tôi mua bán bất cứ thứ gì! 5
tháng trời ba người tù sống như ba nhà tu hành xác kiểu khô thiền!
Trại tù cộng sản, nơi có những phương sách cao siêu để triệt tiêu nhân
cách và khí phách con người nhưng đã phải thúc thủ trước sức mạnh niềm
tin của anh. Anh không ồn ào kinh kệ, không xe xua rao giảng quyền năng
Thiên Chuá, không trình bày thể hiện…. tất cả là một sự nhẹ nhàng của
một người lính công giáo đã thoát phàm, coi sự chết chóc, đe dọa, hành
hạ … như câu chuyện bèo dạt mây trôi.
- Đã đến lúc ta phải trả bớt nợ nần cho anh em ta – anh nhẹ nhàng tâm
tình trong một buổi trưa, bên đống đá vừa đập xong. Câu chuyện lương
giáo đã có những giai đoạn đẫm máu oan cừu! Khác biệt văn hoá đã dẫn đến
những phản ứng cực đoan cho cả hai phiá! Đã đẩy xô giáo dân công giáo
những trăm năm trước phải đứng về phiá thế lực xâm lăng để bảo vệ niềm
tin của mình! Cái giá tử đạo đã quá đắt, hằn tấy vào lịch sử thành những
vết thương sâu hoắm…
Tôi im lặng không nối tiếp câu chuyện quá khứ tang tóc đã làm tiêu tan
biết bao sinh lực của dân tộc! Buổi trưa mùa đông ánh nắng vật vờ, nhìn
dáng anh đăm chiêu, đâu đó như ẩn hiện hình hài một bậc sĩ phu đăm đăm
đứng nhìn thời cuộc can qua, thổn thức trước cảnh lòng dân tơi bời lạc
loạn!
Thật hiếm hoi để có được một tâm thức công giáo rành rọt như anh, một
người công giáo sinh ra từ vùng đất La Vang Phú Cam, vùng đất từng chịu
những cảnh truy bắt sát hại khủng khiếp thời Bình Tây Sát Tả của phong
trào Văn Thân!
…Nơi xa xăm đó, ước mong anh không quên chúng tôi, đang dần kiệt lực
trên hành trình xiển dương và bảo vệ công lý, cho mình và cho cộng đồng
dân tộc anh em nghèo khó của chúng ta.
Paris mùa Thu
10.10.2015
Phạm Văn Thành
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐEO CÂY THÁNH GIÁ
Subscribe to:
Comments (Atom)
Kính ch úc : - Qu ý Ni ên Tr ư ởng. - Qu ý Huynh Tr ư ởng. - Qu ý C ựu TNCT/VN Nam California - C ùng Gia Quy ến M ột ng ày L Ễ T Ạ ...
-
THÔNG BÁO Kính g ởi : - Qu ý Ni ên Tr ư ởng - Qu ý Huynh Tr ư ởng ...
-
Trưa 30/4/1975. Cởi áo trận, ...
-
từ Fbr: Lê Xuân Nghĩa: Vì sao con người ta ngu lâu ? HAI MẶT CỦA MỘT VẤN ĐỀ Tôi vẫn không hiểu nổi một bộ phận lớn người Việt Nam họ nhân ...
No comments:
Post a Comment