Bà Quả Phụ Hà Ngọc Bích

Mỗi năm đến ngày 30 tháng Tư là tôi lại nhớ đến những kỷ niệm của một quá khứ hãi hùng, đau thương nhất trên đời, tôi không bao giờ quên.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngày lịch sử đau thương, điêu tàn của dân tộc Việt Nam và của người dân Miền Nam, của những người đã trải qua thời kỳ hưng thịnh, sống an vui thái bình dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, phút chốc sụp đổ, lôi cuốn theo biết bao đau thương, tang tóc, cha mẹ mất con, vợ mất chồng, người dân tản mát khắp nơi. Hàng vạn, hàng triệu người phải rời bỏ quê hương, ra đi tìm Tự Do. Biết bao người không may đã bỏ mình trên biển cả, rừng sâu, bị bắt bớ, tù đầy, vì không muốn sống dưới chế độ Độc Tài Cộng Sản.
Trước ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các tỉnh lần lượt rơi vào tay các lực lượng trong chế độ độc tài Cộng Sản, khi các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa nhân lệnh buông súng đầu hàng, cởi bỏ chiến y; quân cán chính ngơ ngác, tình hình rối ren, những người đã xả thân bảo vệ quê hương không có lối thoát, đành ấp ủ những nguyện ước chưa thành, danh chưa toại đem theo đến cuối cuộc đời!
Thời thế đổi thay, những người mang danh “giải phóng” Miền Nam, từ trên xuống dưới tha hồ chia nhau các chức vụ ngon lành, rủ nhau vơ vét, chiếm đoạt những tài sản kếch xù của nhân dân miền Nam. Họ bắt đầu thanh trừng, trả thù những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bằng đủ mọi cách, vô lương tâm, vô đạo đức, tàn bạo, độc tài.
Chúng bắt buộc các quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ cấp úy trở lên phải trình diện tại các phường, khóm nơi cư ngụ trong thời hạn một tuần.
Chồng tôi bàn với tôi nên đem các con về sống với gia đình bên Nội các cháu nên chúng tôi thu xếp gia đình, vợ chồng con cái rời Vũng Tàu về Saigòn. Tình thế lúc đó thật rối ren, chúng tôi chưa kịp thích ứng với hoàn cảnh và đời sống mới thì Công An Phường gửi giấy mời anh Bích lên Phường làm việc.
Ngày 15/5/1975, họ bắt chồng tôi phải trình diện ở trường học,với luân điệu lường gạt khi nói chỉ cần đem vài bộ quần áo, ít thức ăn cho đủ một tháng. Tạm sống với gia đình bên Nội nên chúng tôi cũng chẳng có gì. Tôi chỉ gom góp được ít tiền mua bánh kẹo, vài thứ thuốc cảm, thuốc bổ, chai dầu nóng, vài bộ quần áo, ít thức ăn, nhét thêm chiếc áo len và dúi cho anh ít tiền. Tôi dẫn theo đứa con gái nhỏ, cùng chồng tôi đến trình diện.
Mẹ con tôi đứng ở ngoài, dưới gốc cây chỉ bưng mặt khóc. Cho đến tối khuya, hai mẹ con dắt tay nhau ra về, lòng ngao ngán, bơ vơ, không biết rồi đây cuộc sống mẹ con chúng tôi sẽ ra sao? Có tin được lời hứa của những tên Công An phường không? Chồng tôi có được về nhà sau một tháng không?
Vắng
chồng, con còn nhỏ dại, mới ngoài 30 tuổi đầu, hoàn cảnh thay đổi trong
một sớm một chiều, phải sống dưới chế độ Cộng Sản độc tài, tàn ác, bất
nhân, tôi phải nai lưng ra ngoài tìm cách buôn bán để nuôi các con.
Ngày qua, tháng lại, trông mong mãi mà chồng tôi vẫn chưa được về!
Tá túc trong gia đình của ông Nội các cháu nên gia đình tôi không có hộ khẩu, không được mua nhu yếu phẩm quốc doanh, phải mua chợ đen. Thời gian này tất cả người dân đều lâm cảnh túng cùng, thảm sầu, gạo không có ăn. Họ bán toàn gạo mốc, bo bo, thịt cá, vải vóc qua quốc doanh theo khẩu phần. Lúc đầu tôi tìm cách buôn bán, chạy hàng sách, bán mua kiểu nước bọt, ai đưa gì, bán đó, kiếm tiền nuôi con.
Một hôm, có mấy tên Công An phường đến tận nhà bắt buộc gia đình tôi phải đi miền kinh tế mới.
Tôi biết đi vùng kinh tế mới đời sống rất khó khăn, cực khổ! Chồng thì đi cải tạo, các con còn quá nhỏ, tôi nhất định không chịu đi, yêu cầu để tôi ở lại tìm việc làm.
Tạm thời, tôi luộc khoai, bắp, cho con gái lớn ngồi bán trước cửa nhà. Bà con lối xóm thương cảm mua ủng hộ, mẹ con chúng tôi rau cháo qua ngày. Tôi tìm cách liên lạc với các chị em đồng cảnh ngộ, giúp đỡ lẫn nhau. Tôi được giới thiệu gặp bà Tổ Trưởng Đan Len,. Bà có 3 người con đều bị đi tù “cải tạo”, nên bà thâu nhận toàn các bà vợ sĩ quan vào tổ hợp. Có việc làm, gia đình tôi không bị đi vùng kinh tế mới nữa.
Đợi ba, bốn tháng chồng tôi vẫn chưa về, chúng tôi, mấy bà vợ tù “cải tạo” rủ nhau tụ tập trước cửa Tòa Đô Chính, la ó, phản đối, giăng biểu ngữ, đòi thả chồng chúng tôi về, cho chúng tôi được gặp mặt chồng. Mặc cho họ dùng đủ mọi cách dẹp chúng tôi. Họ xịt nước, lôi kéo, dọa nạt, mạt sát cũng không giải tán được chúng tôi. Sau cùng họ lôi chúng tôi ném lên xe Cam Nhông chở về giam ở Mạc Đỉnh Chi. Họ tẩy não, đe dọa, giảng giải, khuyên can chúng tôi đủ điều cho tới tối mới thả chúng tôi về. Thời gian này cuộc sống của mẹ chúng con tôi rất chật vật, vất vả, lo lắng, tinh thần rất căng thẳng.
Sau 3 tháng, có người tử tế, đến đưa cho tôi mảnh giấy nhầu nát, nhặt được trên đường đi, trên đó có mấy chữ “Long Giao”. Vây là mẹ con tôi biết tin anh đang bị giam ở trại tù Long Giao. Tôi đến Phường xin cấp giấy phép đi thăm chồng, lấy lý do gặp chồng để xin cho bán xe. Chuẩn bị đi thăm, tôi tìm trong nhà xem có gì có thể bán được, lấy tiền mua các thức ăn, những thứ có thể ăn dè, để lâu ít ngày được: Nước mắm kho quẹt, muối mè, mì ăn liền, thịt ngâm nước mắm. Lục lọi, tôi tìm ít thuốc còn lại, vài viên Tylenol, thuốc đau bụng, vài viên thuốc bổ dở dang, chai dầu còn một nửa, có gì đem nấy.
Sáng sớm hôm sau tôi dặn con gái lớn ở nhà trông các em để tôi đến bến xe mua vé đi Long Giao thăm chồng. Đến bến xe đã thấy người ta xếp hàng dài đợi mua vé mà vé chỉ bán có giờ, nếu không đến lượt phải mua vé chợ đen đắt gấp 3 lần! Mua một vé cũng đã không kham nổi, lấy đâu tiền mua vé chợ đen? Suy tính mãi, cuối cùng tôi cũng phải bóp bụng mua cho được một vé, mọi chuyện tính sau.
Lên xe mọi người ngồi chen chúc chật trội cũng phải ráng chịu. Sau hai giờ, xe tới Biên Hòa, tôi xuống xe, hỏi thăm dân chỉ đường đến Long Khánh. Họ nói phải đi bộ khoảng một giờ đồng hồ mới đến Trại Long Giao. Hai tay xách 2 túi tiếp tế cho chồng, tôi đi bộ dưới trời nắng gay gắt, khát nước, mồ hôi chảy nhễ nhại, đi một quãng lại đứng nghỉ một lúc. Đến gần quãng đồng mông mênh, nhìn thấp thoáng thấy người thì vác cây, người gánh nước, gánh rau, tôi cất tiếng hỏi vọng:
– Có ông Hà Ngọc Bích ở đây không?
Không nghe ai trả lời. Tới gần hơn, tôi tiếp tục hỏi, nhưng ai cũng lắc đầu.
Trời sắp tối, hết hy vọng, tôi đành quay trở về, lấy cho con ăn các thứ đem về. Tháng sau, tôi lại đi thăm, đến nơi hỏi vọng mấy ông xem có biết Hà Ngọc Bích không. Có một ông dơ tay vẫy. Tôi vội vàng đến gần bụi cây, dấu 2 túi thức ăn và chỉ cho ông chỗ để. Đã quen cách thức của mấy bà vợ thăm nuôi chồng rồi, nên sau giờ lao động, ông ấy ghé qua, lén lấy đem về trao cho anh Bích. Những người bạn tù rất thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, chia sẻ cho nhau, ai nhận được đồ tiếp tế trước thì chia cho các anh em khác ăn cùng, lần sau, người khác nhận được quà cũng sẽ chia lại. Tôi cứ đi thăm lén, mỗi tháng một lần, may thì gặp, không thì lại về.
Sau 5 tháng, tôi được Công An Phường gọi lên, chính thức cấp cho giấy phép đi thăm nuôi ở Suối Máu 5 tháng một lần.
Rồi chồng tôi lại bị chuyển đến trại Bù Gia Mập, nên tôi cứ phải lẽo đẽo, đi thăm chồng. Tôi lại tiếp tục gom góp, dành dụm tiền bạc, tìm cách buôn bán kiếm thêm tiền mua thức ăn thăm nuôi chồng. Mỗi lần thăm phải đi bộ cả ngày mới đến nơi, phải nộp giấy xin thăm. Tới chiều tối, họ cho phép thân nhân được ở lại trong phòng tạm qua đêm, kể sao cho hết chuyện! Tôi cố giữ vững tinh thần, dặn dò, an ủi, khuyến khích cho anh lên tinh thần. Sáng hôm sau các ông phải trở lại lao động, còn các bà vợ và thân nhân phải ra về, lại lội bộ, tìm cách ra về bằng đủ phương tiện có thể. Lúc về thì nhẹ tênh, vì bao nhiêu thứ dồn hết cho chồng.
Đi thăm vài lần, mấy bà vợ đồng cảnh ngộ kết thân với nhau, rủ nhau đi cùng, nếu ai có con nhỏ hay gặp khó khăn, túng thiếu, không thể đi thăm nuôi đúng kỳ thì chúng tôi thay phiên, giúp đỡ, ai đi được thì mang dùm. Chúng tôi còn rủ nhau mướn xe đi chung cho đỡ tốn phí và đi đường xa có bạn.
Có lần 4 chị em bạn chúng tôi đi thăm nuôi vào mùa mưa lớn, quần áo ướt đẫm nhưng vẫn phải tiếp tục đi.
Một chị bị ướt, yếu sức, bị cảm lạnh, đã quỵ xuống ngất đi. Chúng tôi xúm lại thoa dầu, cho uống nước, cạo hai bên Thái Dương, lay cho chị tỉnh lại, nhưng không thấy chị mở mắt. Mấy người dân đi qua dừng lại, tìm cách cứu chữa nhưng đã trễ, thật tội nghiệp, chị đã ra đi. Chúng tôi nhờ những người dân ở đây giúp đỡ, báo với Công An để họ lo mọi chuyện. Chúng tôi nhìn nhau đau xót nhưng đành phải tiếp tục đi, vì đường còn dài, phải mau bước trước khi trời tối. Khi đến nơi thì trời cũng vừa tối, mệt mỏi, các thứ mang theo cũng bị ướt hết, phải rũ hết ra, đem hong cho khô bớt. Chúng tôi tìm chỗ ngủ, nghỉ ngơi, đợi sáng vào thăm chồng.
Sáng hôm sau tại phòng đợi, họ gọi từng người ra gặp vợ hoặc thân nhân. Chúng tôi đã bàn với nhau về trường hợp chị bạn đã chết dọc đường, không biết phải nói sao khi ông chồng ngóng chờ chị thăm nuôi mà không thấy? Chúng tôi bảo nhau, mỗi người bớt ít phần quà của ông xã mình, gom lại đưa cho ông và nói là kỳ này chị không khỏe nên nhờ chúng tôi đem dùm ít thức ăn cho ông.
Đến tối, trời thì lạnh, phần thương chồng, phần ngao ngán nghĩ tới cảnh đường xá xa xôi, vất vả, đi đường cực khổ, sáng hôm sau chúng tôi lại phải chia tay các ông chồng ra về, sáu tháng sau mới được gặp lại! May quá, chúng tôi gặp ông tài xế tử tế, thông cảm nghĩ ra một cách, báo cáo xe hỏng, máy không nổ, còn đang sửa chưa xong. Lấy cớ đó, chúng tôi vào báo với cán bộ, dúi cho hắn bao thuốc lá, tả oán một lúc, hắn đồng ý cho ở lại qua đêm, nên các ông được thêm một ngày một đêm với vợ.
Mỗi chuyến đi thăm tôi phải mất 3 ngày, một ngày đi, một ngày ở lại, một ngày về. Cảnh nhà thiếu hụt, mỗi lần thăm nuôi trong nhà có bao nhiêu đều dốc hết, mẹ con lại tiếp tục ăn dè, hà tiện, gom góp chờ ngày thăm nuôi kế tiếp. Tôi đến Phường xin giấy phép thăm nuôi, mỗi lần là có mỗi lý do. Xin phép gặp chồng 2 lần để bán xe. Chúng tôi có đứa con gái, lúc đó nó mới 9 tuổi, lấy cớ xin phép gặp chồng để bàn chuyện cưới gả! Những ngày mới vào miền Nam, mấy tên Cán Ngố không biết chúng tôi bịa chuyện nên qua mặt họ dễ dàng.
Mỗi lần chuẩn bị đi thăm chồng, thằng con trai tôi cứ khóc đòi đi đến nhà Bố ở! Vì nó thấy tôi chuẩn bị nhiều thức ăn, kho nấu, nào thịt heo, mắm kho, mì ăn liền, trong khi ở nhà chị em chúng không được ăn những thứ đó.
Sau lần thăm này, nhóm của chồng tôi gồm 3 ông bàn nhau tổ chức trốn trại. Họ đã âm thầm lên kế hoạch, trên đường tẩu thoát, không may bị lộ. Một ông bị bắt, bọn chúng lôi ra cột cờ xử bắn, hai ông may mắn trốn thoát được. Còn chồng tôi không dám theo vì thấy nguy hiểm, sợ thất bại! Vì vây họ canh chừng chồng tôi rất nghiêm ngặt. Nhất cử, nhất động, chúng theo rõi chặt chẽ, nên thời gian đó tinh thần chồng tôi rất căng thẳng!
Ba năm sau, chồng tôi lại bị chuyển đến trại A30 ở Tuy Hòa. Nơi đây Công An canh gác rất nghiêm ngặt, đường đi thăm nuôi xa xôi hơn, phải đi bằng tầu lửa. Tôi tìm trong nhà có bao nhiêu áo quần, phấn son trước kia chồng tôi đi tu nghiệp ở Mỹ mua cho tôi, đem ra bán hết lấy tiền mua vé xe lửa, thức ăn, thuốc men, chuẩn bị đi thăm chồng. Lên xe lửa thì chật chội, tôi phải ngồi co cẳng lên, hàng hóa ngổn ngang, chất đầy, nào gà, vịt, rau, trái, gánh gồng, trong tầu đủ mùi bay lên đến ngộp thở.
Tầu đi một ngày mới tới ga Tuy Hòa. Tôi xuống tầu hỏi thăm, người dân ở đây họ đoán các bà có chồng đi “cải tạo” nên thương hại chỉ lối rõ ràng và cho biết tôi phải đi bộ thêm nửa ngày nữa mới tới. Vì lần đầu đến đây, chưa biết đường đi nước bước ra sao, trong tương lai không biết tôi có còn đi thăm được nữa không nên tôi cố tình mặc áo quần rộng để dấu thêm các thứ.
Trên đường đi, gặp xe chở cây thì thuê họ chở cho một quãng, gặp người dân gánh gồng, tôi lại thuê gánh đỡ, lúc không có ai để nhờ tôi phải đi bộ. Cứ đi một quãng lại đứng nghỉ một lúc, cứ lê kéo dần. Nếu có các bà cũng đi thăm chồng thì chúng tôi giúp đỡ, trông chừng, canh giữ đồ đạc cho nhau.
Khi đến nơi thì trời đã tối, hết giờ cho thăm, chúng tôi tiết kiệm tiền, không thuê chỗ nằm của chủ quán, rủ nhau tìm khoảng đất trống nghỉ mệt, ngủ qua đêm, đợi trời sáng.
Sáng hôm sau, tới giờ cho thăm, mọi người xếp hàng, nộp giấy phép thăm nuôi, đợi độ 30 phút, có tên Công An ra gọi:
– “Ai là người nhà Hà Ngọc Bích?”
– “Tôi đây.”
Họ đưa tôi vào phòng trong, trên một cái bàn gỗ dài, có tên Công An ngồi ở đầu. Phía trong, trước mặt tôi, một ông tóc dài, râu ria râm rạp, gương mặt gầy ốm. Trong chốc lát, tôi mới nhận ra đó là chồng tôi. Vì Công An ngồi canh nên chúng tôi chỉ nhìn nhau thương cảm, nghẹn ngào không nói lên lời, nước mắt thay nhau tuôn trào. Anh đưa hai tay nắm chặt tay tôi không rời. Một lúc sau, anh hỏi thăm các con, hỏi chuyện nhà ra sao? Tôi chỉ trả lời rằng các con vẫn khỏe và khuyên anh chịu khó học tập cho tốt để mau được về.
Sau hơn 5 năm tù đầy, cuối cùng họ cũng thả chồng tôi về. Nhờ gia đình bên chồng tiếp tế, gửi tiền, gửi đồ và các bạn Khóa 15 ở nước ngoài rủ nhau giúp các bạn cùng khóa còn kẹt lại, mỗi gia đình một gói quà 2 pounds. Lúc đó chồng tôi và các bạn cùng khóa rất vui mừng, cảm động, vì một miếng khi đói bằng gói khi no, giúp chúng tôi lên tinh thần. Những lúc này mới hiểu “Tình Tự Võ Bị, Huynh Đệ Chi Binh” thật cao cả và ý nghĩa. Tất cả các gói quà đó được các bạn ủy thác cho một người bạn phụ trách đóng gói, cùng tên, cùng địa chỉ nên bọn Cán Bộ nghi ngờ các món quà này do một tổ chức kháng chiến ở nước ngoài gửi về. Họ điều tra, gạn hỏi, gây khó khăn phiền phức, nên các anh đã nhắn các bạn ngưng gửi! Nhưng vì tình đồng khóa, “Tình Tự Võ Bị” khắng khít, các bạn lại tìm cách gửi tiền chui về. Mỗi năm khi Xuân sắp về, Tết sắp đến, gia đình tôi, gia đình các bạn và cả gia đình vợ con các bạn cùng khóa đã hy sinh đền nợ nước cũng nhân được quà.
Sau khi gia đình tôi đến định cư ở Tiểu Bang California, Tình Tự Võ Bị lại được thể hiện, gia đình chúng tôi được các bạn cùng khóa đón tiếp, hỏi thăm, hướng dẫn, thay phiên nhau tình nguyện giúp đỡ, mách bảo những kinh nghiệm của những người đi trước, dẫn dắt làm các thủ tục giấy tờ cần thiết để thích nghi với cuộc sống mới. Các anh còn liên lạc với các anh em, Niên Trưởng, Niên Đệ đến thăm hỏi, tay bắt mặt mừng. Chồng tôi may mắn được anh bạn cùng khóa giúp đỡ, giới thiệu và được thâu nhân vào làm việc cùng sở với anh. Công việc thoải mái, thích hợp với khả năng, lương bổng và quyền lợi được ổn định.
Những lúc thảnh thơi, vui vẻ, vợ chồng chúng tôi thường nói chuyện xưa và hỏi nhau:
– Giá như anh còn ở lại Việt Nam thì những năm sau này sống dưới chế độ Cộng Sản, anh sẽ làm gì để nuôi gia đình, vợ con? Các con chúng mình có được đi học không? Có được thành công và tương lai sự nghiệp có được như hiện tại không?
– Tạ Ơn Trời! – Vợ chồng chúng tôi chỉ nói lên câu.
Giờ đây anh Bích đã yên nghỉ ngàn thu, đã thanh thản về Miền Cực Lạc, xa vợ con, gia đình, bạn bè. Tôi nghĩ với bản chất hiền lành, quí mến bạn bè, thân thiện với mọi người, lúc sống, anh luôn có mặt trong hầu hết các sinh hoạt, tổ chức, họp khóa. Anh luôn nhường nhịn, quí mến các bạn cùng khóa, cùng trường, trên kính, dưới nhường. Tôi chắc anh linh thiêng sẽ phù hộ cho vợ và các con anh cùng tất cả anh em đồng khóa, đại gia đình Võ Bị luôn thương yêu nhau, tìm đến nhau để cùng nhau ôn lại kỷ niệm dưới trường mẹ, kể cho nhau những chiến công hiển hách lẫy lừng của chàng trai Võ Bị.
San Jose, Tháng Tư, 2020
Bà Quả Phụ Hà Ngọc Bích, K15/1
(nguồn: Đa Hiệu 119- Tháng 5/2021)
No comments:
Post a Comment