Âm thanh chói tai của tiếng kẻng phát
ra từ chòi gác ngay cổng Trại 5 tù ở Bình Điền làm mọi người thức
dậy. Không khí các “lán” trở nên ồn ào khi tiếng kêu lấy nước nóng
để uống cũng như châm đầy bi đông của bác Huỳnh trực “lán”, vừa gánh
nước đun sôi từ nhà bếp. Sau đó, bác vội vã trở lại nhà bếp nhận
phần ăn sáng cho “lán”, với những củ khoai mì (sắn) sứt sẹo hấp
chín, trên các khay tròn bằng kim loại pha nhôm bị oxy hóa cũ kỹ
móp méo. Mỗi khay là phần ăn ít ỏi của 6 người tù.
Vào mùa đào khoai lang, trại cho nhà bếp cung cấp vào 3 bữa ăn sáng
trưa và chiều tối, một thời gian phải ăn bo bo mà Ấn Độ viện
trợ cho nhà nước Cộng Sản Việt Nam nuôi gia súc, bác Huỳnh
cùng mấy người tù lớn tuổi răng lung lay, cái còn cái rụng, móm mém
nhai không kỹ nuốt vào rồi khi thải ra cũng y chang như vậy, ngay cả
người trẻ cũng thế vì cái vỏ của nó dai, khó tiêu.
Từ khi con sáo bạc má của anh Châu nuôi biết bay, nó như hiểu được
nỗi khổ tâm của người tù khi nghe kẻng. Mỗi lúc sáng sớm trước giờ
khua kẻng, nó bay từ trong rừng lượn qua các “lán” và cất tiếng hót,
âm thanh như nốt nhạc yêu thương, du dương chan chứa tình cảm. Khi
nghe tiếng hót, mọi người thức dậy mỉm cười và tất cả hiểu rằng đó
là con sáo của thằng Châu, người tù không bản án.
Châu ra trường tình nguyện về binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Tháng
3 năm 1975, đơn vị anh đang phòng phủ tuyến Sông Bồ thì địch quân mở
những cuộc tấn công thăm dò nhưng bị tiểu đoàn của Châu chặn đứng.
Thình lình, trên ra lệnh TQLC phải triệt thoái vô Đà Nẵng bằng đường
thủy, điểm tập trung tại bờ biển Phú Thứ, và sẽ được tàu Hải Quân
vào đón. Được biết sau buổi họp phân chia nhiệm vụ cho từng đơn vị
đang hiện diện trong lãnh thổ tỉnh Thừa Thiên, Trung Tướng Lâm Quang
Thi, Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, đã lên đường vào Đà Nẵng.
Tới nơi an toàn, ông chỉ huy qua máy truyền tin PRC 25 cho các đơn
vị, nhưng ông không nhìn thấy tình hình thật sự của điểm tập trung
mà ông hoạch định. Tàu HQ của Hải Quân neo xa tít ngoài tầm hỏa
tiễn địch quân. Từ 10 giờ sáng đến 7 giờ tối ngày 25 tháng 3 tàu Hải
Quân bất động, đáng lý ra thời gian này rất thuận lợi cho tàu vào
bốc, vì áp lực địch còn ở xa điểm tập trung. Ngày hôm sau, một chiếc
LCM vào bốc Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn TQLC cùng thương binh tử sĩ, công
việc chưa hoàn tất thì tàu vội vàng de ra ngay. Mấy giờ sau, một
chiếc khác ủi vào bãi, lúc đó con nước ròng mà số người tràn lên quá
đông nên tàu bị mắc cạn. Một chiếc khác vào kéo cũng không được. Mờ
sáng ngày 27 tháng 3, tàu HQ biến mất trên biển, vì đã nhổ neo
trong đêm tối. Cả đoàn quân trên bờ hết hy vọng, như cá bỏ trong
rọ nên bị bắt. Kế hoạch của Tư Lệnh Tiền Phương thất bại hoàn toàn,
nhưng Trung Tướng Lâm Quang Thi, ở trong Đà Nẵng, đã mạnh dạn tuyên
bố tàu HQ của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chuyên chở được hơn phân
nửa Lữ Đoàn TQLC vào Đà Nẵng.
Người tù cấp thiếu úy và trung úy phải cuốc bộ từ Cây Số 17
lên Khe Sanh rồi đến Tà Cơn gần biên giới Lào, sau khi VNCH bị bức
tử. Toàn bộ các tù nhân lại phải đi bộ trở về Cồn Thiên, rồi Ái Tử,
sau rốt là Bình Điền, nơi mà người dân thường ví: “Cọp Bình Điền,
nước Khe Điên”.
Các trại tù ra công sức phá rừng, khai khẩn đất để trồng trọt, dẫn
nước làm ruộng lúa, nông sản dồi dào nhưng vẫn ăn độn sắn khoai. Số
lượng thực phẩm nuôi tù quá ít nên tù bị đói ngày này qua ngày
khác, nếu không có gia đình bới xách thì chẳng biết thân phận người
tù sẽ ra sao. Một hôm gần ngày Tết Nguyên Đán, toán của Châu tăng
cường vào rừng chặt cây cung cấp củi cho nhà bếp. Thân cây to bổ
nhào sau khi dứt gãy, tổ chim văng ra và một con chim mới nở còn
sống sót. Anh em trong toán nhìn con chim non đỏ hỏn, miệng đang hả
rộng đòi ăn.
Nhớ thời gian gần cuối năm 1977, lúc Đoàn 76 của Quân Đội Cộng Sản
quản trị tù, một số anh em các trại tù đi “lao động” khổ sai ngoài
Thanh Hóa, vét Kinh Mụ Bà thuộc thị trấn Đô Lương, rồi sau đó phá
rừng ở Sông Mực, Thanh Hóa. Thật sự đây chính là địa ngục trần
gian, vì người tù làm việc quá sức, trong khi thức ăn là cái bánh
bột mì mỏng và tròn nằm gọn trong lòng bàn tay, bụng đói meo mà khi
nuốt nó vào bao tử khoảng một giờ sau là cơn đói trở lại.
Người tù lúc cởi trần, có thể đếm được từng cái xương sườn của mình.
Khi bước đi, người tù chỉ vướng vào cỏ dại bò trên mặt đất là té bổ
nhào. Dụng cụ cấp phát gồm rựa, búa, lưỡi rìu dùng để chặt hạ
khu rừng gồm các loại danh mộc: dẻo như Táo, xoắn như Trường Mật,
và cứng như Lim (rừng Thanh Hóa sản xuất nhiều gỗ Lim). Lúc đó
không một sinh vật nào thoát khỏi tay người tù, ngay cả con cheo
phóng chạy thật nhanh, nguy hiểm trước con rắn phùn mang phát tiếng
khè đe dọa; cóc nhái, cắc ké, tắc kè, ong mật, đủ loại trái cây
rừng… Nhờ sinh vật và thực vật đó mà người tù như những bộ xương
biết đi còn tồn tại. Vài anh giã từ bạn bè vì trúng độc, bị cây đè,
cảnh tù vô vọng thành quẩn trí nên quyên sinh.
Trở về Ái Tử, Đoàn 76 bàn giao cho Công An quản trị, tất cả các trại
tù chuyển hết vào Bình Điền. Nhờ hy sinh của gia đình, dành dụm để
bới xách thực phẩm và thuốc men bồi bổ lên thăm, nên sức khỏe mọi
người từ đó được phục hồi. Khi thấy con chim đỏ hỏn, anh em thương
hại, nhìn chung quanh không thấy chim mẹ, nếu để lại có thể sẽ làm
mồi cho sinh vật khác đang sống trong rừng. Châu được anh em ủy thác
săn sóc, và mỗi người sẽ tìm bắt cào cào châu chấu, sâu bọ đem về
cho chim.
Châu dùng cỏ khô bện lại làm cái tổ, mỗi lần chim con hả miệng kêu
là anh dùng tay bóp dập con cào cào rồi đút vào miệng nó. Hằng ngày
anh em cung cấp cả chục con châu chấu, dế cho chim, đôi khi phụ thêm
chút bánh in do gia đình mang lên. Mỗi khi về đến “lán”, Châu đem
cái tổ đặt giữa bàn, trong khi anh em ngồi chung quanh ăn khoai mì,
lúc thì khoai lang, hoặc bắp hột, hay khoai mì, sắt lát phơi khô bị
mốc meo, nhai sừng sực khó nuốt. Riêng chim con được cả toán săn sóc
cẩn thận, đầy đủ đồ ăn riêng cho nó. Đây là niềm vui chung duy nhất
của nhóm người tù.
Chim được cho ăn no mỗi tối. Tổ chim đặt trên dàn chứa ba lô và giỏ
xách và đặt nó trong cái lồng tạm để phòng ngừa chuột tấn công vào
ban đêm mà thôi. Là thân phận tù nên anh em không muốn cảnh
cá chậu chim lồng. Những tối họp “lán” để “bình bầu” hay “đấu tố”
theo lệnh của trại, chim được giấu trong thùng gánh nước mà bác
Huỳnh để bên ngoài.
Chim lớn nhanh, màu sắc bộ lông của con chim là Sáo Bạc Má. Trong
‘lán” có anh Bùi Bảy lúc còn thiếu niên hay theo cha đi bẫy
Cu, anh được cha hướng dẫn cách săn sóc để dùng làm Cu mồi,
anh học cách nhận xét một số loài chim đặc biệt để phân
biệt con trống và con mái. Quan sát chùm lông trên mũi rậm,
mọc dài và nhô cao, vệt lông đen đuôi mắt to đậm và nhọn
phần cuôi, anh Bảy cho mọi người biết con Sáo này là con
trống.
Ngày con sáo tập bay từ trên bàn xuống đất, rồi là đà qua các bàn,
anh em vỗ tay, cười vui như khuyến khích cố rán lên. Nó nghe và hiểu
tiếng huýt sáo của nhóm nuôi nó, nên khi nghe nó ngẩng đầu về hướng
đó. Ngày kế tiếp nó bay đậu trên hàng rào trại tù, trên mái tranh.
Anh em mỗi khi có con cào cào, dế, hay châu chấu, chúm môi huýt sáo
thì nó liền bay đậu trên vai và dùng mỏ quặp con mồi. Cuộc sống của
con Sáo Bạc Má và người tù như có mối tình cảm liên kết không sao
giải thích được. Mỗi lần xuất trại, khi toán bước ra khỏi cổng vài
trăm thước là thấy con Sáo bay theo. Nhóm của Châu khi cuốc đất hay
làm cỏ, người nào bắt được con mồi, liền huýt sáo là nó bay sà đến.
Một buổi chiều sau bữa ăn tối nó bay thẳng vào rừng, và mấy ngày sau
không thấy tăm hơi, anh em buồn bàn luận nhiều về nó.
Bác Huỳnh thức dậy sớm, khi âm thanh tiếng kẻng vừa vang lên là bác
gánh đôi thùng rời khỏi “lán” bước nhanh đến nhà bếp. Bỗng dưng hôm
nay bác nghe tiếng hót của con khứu đang quyện trên không, và mọi
người cùng ngồi bật dậy. Đó là tiếng hót của con Sáo Bạc Má mà nhóm
thằng Châu nuôi. Một chập sau tiếng kẻng khuấy động cảnh yên tĩnh
của núi rừng vùng căn cứ Bastogne khi xưa. Con Sáo đã trở về với
những người tù không bản án.
Từ dạo đó, nó đánh thức cả trại tù bằng âm thanh du dương
mỗi buổi sáng, nhảy trên vai Châu cùng những người trong
nhóm đang ngồi cùng vài củ khoai mì ít ỏi trước mặt. Nó rũ
lông, thân tình cạ đầu vào má người tù. Khi có kẻng tập
họp, nó bay ra ngoài trại rồi bay theo người tù đi làm việc
khổ sai như hình với bóng. Lúc hoàng hôn dần xuống nơi chân trời
là lúc con sáo rời trại tù bay thẳng vào rừng. Một hôm ánh nắng
chiều vừa tắt, có tiếng hót mà âm thanh không mạnh phát ra
trên cành cây bên bờ suối ngoài trại, con sáo bạc má của
nhóm Châu cất cao tiếng hót đáp trả, rồi lập tức bay ra,
anh em nhìn thấy từ chòm cây bóng con chim xẹt ra, hai chấm
đen chìm lẫn trong cánh rừng.
Tình cảm của người tù và con sáo khắn khít, như có chút
thần bí gì đó, ngày con Sáo không đến, anh em thấy nhớ,
buổi sáng nghe tiếng hót, mọi người vui vẻ suốt cả ngày.
Khi hoàng hôn, tiếng hót chim mái vang lên, rồi hai cánh cùng
chim bay vút vào rừng,
Trong số công an dẫn người tù đi làm việc, có tên Thư người
gốc Quảng Bình hống hách, ra khỏi cổng là hối thúc anh em
bước nhanh. Mỗi khi khai khẩn đất trồng khoai thì hắn bảo:
- Này, các anh giơ cuốc lên cho chim đậu, cuốc xuống đất cho
mối ăn đấy hỉ?
Hôm nào tên Thư dẫn “lán” của Châu đi làm, trời trưa nắng
hắn hay ngồi trong bóng im, con sáo đậu trên cành và ị trên
nón cối hắn. Lúc đầu hắn không để ý, dần dà hắn cảm thấy có gì
khác lạ. Một lần sau giờ nghỉ giải lao, hắn đang gằn giọng quát tháo
anh em tù, lập tức từ trong lùm cây con sáo bay nhanh quẹt ngang
sống mũi hắn, hắn giựt mình vì bất ngờ nhưng hắn nhìn thấy dáng con
chim bay khuất trong lùm cây. Hành động của con sáo được người tù
thán phục, có anh cho rằng vong linh của tử sĩ VNCH tại căn cứ
Bastogne ở trong nó.
Một hôm tên công an Thư lại dẫn đội của Châu vừa ra khỏi cổng, con
sáo lượn ngang cào trên nón cối của hắn, anh em nhìn nhau với ánh
mắt vui mừng. Đội dọn đất sạch sẽ để chuẩn bị cho trâu cày xới đất
rồi bón phân xanh, kế hoạch sẽ trồng đậu giúp đất màu mỡ. Anh em bắt
được cào cào để thưởng công cho nó. Giờ giải lao, nhóm của Châu ngồi
dưới gốc cây, Châu huýt gió thì con sáo sà xuống, anh em để thức ăn
trên lòng bàn tay cho nó. Con Sáo bay đậu trên nhánh cây, nó cất
tiếng hót vui tươi cho những người tù
Đoành!
Tiếng đạn xẹt qua đầu người tù, con sáo rớt xuống đất, lông lả tả
bay, Châu chụp vội con Sáo trong lúc tiếng kêu tập họp của anh đội
trưởng.
Những ngày làm việc, khi có súng AK nổ, vọng gác đánh kẻng báo động,
các đội đang làm việc phải tập họp ngay điểm danh. Lúc đó toán công
an nơi ban chỉ huy trại tủa ra, một số chạy đến chỗ đội của Châu.
Từ xa, anh em nhìn thấy tên công an Thư phân bua gì đó với họ. Một
lát sau họ rút lui, anh em lại tiếp tục làm việc đến hết giờ trở về
trại.
Buổi ăn chiều thật buồn thảm, con sáo đã bị tên Thư căm thù, theo
dõi và bắn chết nó. Nhóm của Châu âm thầm đặt xác con Sáo trong cái
ly nhựa, và chôn tại bàn ăn của nhóm. Tiếng hót con chim mái trên
cành cây bên ngoài trại vui tươi, nhưng sau đó âm thanh từng
chập vang lên như ai oán trong bóng đêm. Tối hôm đó anh em làm
lễ truy điệu cho con sáo giống nghi thức hạ huyệt người lính trận
hy sinh.
Vào năm thứ sáu anh em lần lượt ra tù, nhóm chỉ còn lại Châu. Khi
nghe xướng tên mình được phóng thích, anh trở về “lán” thu dọn vật
dụng. Anh đã suy tính từ lâu, khi nghe và thấy nhà tù mới đang khởi
công xây cất với thép và ciment đúc kiên cố, tương lai các trại tù
sẽ gom hết về nơi đó. Với Châu dù ở đâu cũng là thân phận người tù,
nhưng thân xác con Sáo không thể nằm trong vòng kẽm gai của trại
tù, dù rằng mai này trại này bị dẹp bỏ.
Châu ra ngay chỗ bàn ăn, đào lấy cái ly nhựa đựng xác con Sáo, gói
cẩn thận để vào ba lô. Trên đoạn đường ra ngã ba từ Bình Điền đến
Ashau, anh tạt vào khuất sau đám chồi, đào đất rồi trịnh trọng đặt
cái ly nhựa xuống. Những kỷ niệm từ con chim đỏ hỏn, tới con sáo bạc
má, tiếng hót du dương, hình ảnh dễ thương hai bóng chim tung
cánh về tổ ấm, hành động dũng cảm với tên công an Cộng Sản. Giọt
nước mắt dành khóc cho đồng đội của người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa nay trào ra khóe mắt, trộn lẫn vào nắm đất vừa lấp trên
cái ly nhựa.
Khi chiếc xe đò nhỏ vừa chuyển bánh rời bến Bình Điền, Châu ngoái
nhìn lại con đường vào trại tù. Anh mường tượng con Sáo Bạc Má đang
cất tiếng hót, và vỗ cánh bay về hướng ngọn đồi của căn cứ Bastogne
ngày trước. Những người lính đang huýt gió chờ nó đến. Bỗng dưng,
anh nghe thoảng bên tai nhạc quân hành, hoà cùng ca khúc “Chiến
Sĩ Vô Danh” trong ánh nắng ban chiều phủ xuống bến phà qua sông
Hương.
MX Giang Văn Nhân
* Phóng tác theo câu chuyện thật của bạn tù Ái Tử Bình Điền.
CON SÁO BẠC MÁ VÀ NGƯỜI TÙ
Subscribe to:
Comments (Atom)
Kính ch úc : - Qu ý Ni ên Tr ư ởng. - Qu ý Huynh Tr ư ởng. - Qu ý C ựu TNCT/VN Nam California - C ùng Gia Quy ến M ột ng ày L Ễ T Ạ ...
-
THÔNG BÁO Kính g ởi : - Qu ý Ni ên Tr ư ởng - Qu ý Huynh Tr ư ởng ...
-
Trưa 30/4/1975. Cởi áo trận, ...
-
từ Fbr: Lê Xuân Nghĩa: Vì sao con người ta ngu lâu ? HAI MẶT CỦA MỘT VẤN ĐỀ Tôi vẫn không hiểu nổi một bộ phận lớn người Việt Nam họ nhân ...
No comments:
Post a Comment