Xin trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết của Anh Lê Xuân Mỹ. Một bài viết mà khi đọc đã nhạt nhoà nước mắt. Không màu mè bóng bẩy, chỉ là hồi ức về một giai đoạn cùng khổ mà tất cả người miền nam VN chúng ta đều trải qua khi mất nước, nhưng người đọc không thể không bùi ngùi, xúc động dù đã nhiều năm trôi qua. Đó cũng là một trong những lý tại sao chúng ta không thể quên, không thể tha thứ, càng không thể hoà hợp hoà giải .. hay có thể nào chấp nhận luận điệu: hãy quên quá khứ để hướng về tương lai?
TÔI, ĐỨA CON NGƯỜI TÙ "HỌC TẬP CẢI TẠO"
Trong cái dòng người hoảng loạn, trong cái âm thanh cuồng nộ những ngày
cuối cùng của tháng tư, hai cha con vẫn còn nhìn về hướng Lăng Ông Bà Chiểu,
nơi nhà tôi ở đó. Vẫn còn hy vọng mẹ và các em đến kịp để cùng đi. Phép lạ
đã không xảy ra. Tàu sắp nhổ neo, mẹ và các em tôi vẫn biệt tăm. Ba bảo thôi
con lên trước đi, ba đợi thêm một tí nửa, mình gặp nhau trên tàu. Trong
mắt ba vẫn còn ánh lên một tia hy vọng. Nhưng tôi biết là đã hết. Thời
gian không còn kịp nữa. Ba hối thúc tôi lên tàu, riêng ba không đành bỏ vợ và 8
đứa con còn nhỏ dại, quyết định quay lại. Với tôi, ra đi hay ở phải là một
quyết định trong chớp mắt. Nhưng sao đành bỏ lại ba một mình với khuôn mặt và
cặp mắt thất thần như vậy. Tôi lắc đầu. Thế là tôi và ba quay ngược lại dòng
người vẫn cuống cuồng chạy về phía bờ sông, dù con tàu đã từ từ rời bến. Cùng
với hàng triệu người miền Nam Việt Nam, tôi và gia đình bắt đầu sống những
tháng ngày đen tối nhất.
Đêm đầu tiên, khi nghe tin ĐT Dương Văn Minh đầu hàng trên đài phát thanh, ngoài đường những nhóm người đội mũ cối cầm súng đi qua đi lại, cả gia đình tôi chui dưới chân cầu thang, tắt đèn tối thui, ẩn trốn, và ba đã khóc. Thế là chấm dứt một quảng đời, lịch sử đã sang trang và chúng tôi đã cảm thấy một tương lai mịt mù sắp tới.
Trong những ngày sau đó, ba tôi sống trong hoang mang,
lo sợ, không dám bước ra khỏi nhà. Mặt ba lúc nào cũng căng thẳng. Riêng tôi
mỗi ngày vẫn lên trình diện cơ quan rồi về. Lên để biết thì ra có những bạn bè
cùng sở làm ngày xưa, từng cùng vui chơi sinh hoạt với mình bây giờ đội mũ cối,
cầm súng lầm lì đi ra đi vào. Có người còn chào hỏi tử tế nhưng có đứa mặt mày
vênh váo, kênh kiệu, những nhân viên còn lại, không phải dân
Cộng sản nằm vùng tụm lại một phòng trên lầu, co cụm đến tội nghiệp.
Trong những ngày đầu mất nước tháng 5 năm 1975, tôi biết ba vẫn còn hy
vọng về môt người, người em út đi tập kết từ những năm 1954, nghe đâu đang làm
lớn và hình như đang có mặt tại Sài Gòn. Chính ủy chính iết gì đó. Ba kể hồi
nhỏ ba và chú rất thương yêu nhau, ngày chú đi vào rừng theo kháng chiến, ba là
người cuối cùng gặp và đưa chú vào chiến khu. Ba vẫn nghĩ nếu có chú chắc ba sẽ
không sao.
Như một người sắp sửa bị chìm tàu, cố bám víu một chút hy vọng nào đó để sống,
dù rất mỏng manh. Với riêng tôi, hình ảnh về chú không hiền lành như ba tưởng
tượng mà là những con người tôi đã từng xem qua cuốn phim “Chúng tôi muốn sống” ,
lạnh lùng và tàn ác. Tôi nghĩ ba quá ngây thơ, nhưng biết làm sao được, một
người lính thất trận, một vợ và 9 đứa con nheo nhóc trong một thành phố đã
không còn thuộc về mình, chung quanh đầy rẫy những bóng đen rình rập. Có thể ba
đang cố quên nhưng với tôi, ký ức về một Mậu thân khủng khiếp ở Huế vẫn còn đó,
không thể nào không nhớ. Những cuộc trả thù tàn khốc chắc chắn sẽ xảy ra. Không
ảo tưởng như ba, tôi chờ đợi và biết rằng ngày đó sẽ đến, không xa.
Một ngày đầu tháng sáu, giống như ba đang mong đợi, chú tôi đi cùng một vài bộ
đội cầm súng ghé nhà thăm gia đình chúng tôi. Một Trung tá chính uỷ thuộc đơn
vị phòng không không quân Hà Nội, ghé thăm cựu trung tá cảnh sát chế độ
củ. Hai anh em thuộc hai chiến tuyến gặp nhau tại Sài -Gòn sau 20 năm xa cách.
Hai người đi hai con đường khác nhau, cuối cùng hội tụ tại một điểm. Cũng chào
hỏi, cũng mừng mừng tủi tủi, cũng nhắc lại chuyện xưa, nhưng tôi biết quan hệ
đã không còn như trước nữa, ngượng ngùng, khách sáo. Nói thật lòng, chú tôi
nhìn bề ngoài gầy gò khắc khổ, ít nói và trông có vẻ hiền lành chứ không đến nỗi
dữ dằn như trong tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi vẫn không thể chuyện trò thân
mật với chú được. Một bức tường vô hình đã chắn ngang trong quan hệ của chúng
tôi.
Sau ngày đó thỉnh thoảng chú đến thăm ba tôi, và cũng kể từ ngày đó những đồ
đạc quí giá còn sót lại trong gia đình cũng dần dần ra đi. Khi thì cái tủ lạnh,
khi thì cái truyền hình trắng đen hiệu Denon 4 cửa xếp. Mẹ nói riêng với
tôi:
- cho chú, thôi kệ của đi thay người
, hy vọng sau này có gì nhờ chú giúp ba con cũng đở khổ phần nào.
Mẹ nghĩ vậy thì hay vậy, chứ trong thâm tâm tôi mẹ đã không biết gì về Cộng Sản rồi. Xin tiền thì có thể chú sẽ cho nhưng để bảo lãnh cho một sĩ quan cảnh sát như ba tôi chắc chắn là không. Biết vậy, nhưng thôi cứ để mẹ bám víu một chút hy vọng dù rất mong manh. Nói một cách trung thực, từ ngày có chú đến thăm gia đình, thái độ của các công an CS, cán bộ phường đối với gia đình tôi cũng có chút thay đổi, không giống như những ngày đầu “mất nước”.
Nhớ lại ngay ngày mồng 2 tháng năm, vừa mới sáng sớm một đoàn người đông đảo,
cán bộ có công an có ghé vào nhà, kêu ba tôi ra trình diện, ra lệnh ba tôi
trong thời gian này phải ở nhà, không được đi đâu cả cho đến khi có lệnh mới.
Sau đó đi một vòng quanh nhà tôi, ngang phòng khách, giật đứt chiếc điện thoại
để bàn, xem giấy tờ từng người và trước khi ra về, lấy luôn chiếc đồng hồ đeo
tay của ba trên đầu tủ thờ. Chiếc đồng hồ kỹ niệm của ông nội mà ba rất quý. Mẹ
chắc lưỡi - thôi kệ, của đi thay người.
Một ngày cuối tháng sáu, cái ngày tôi biết chắc chắn phải đến, cuối cùng đã
đến. Ba tôi nhận giấy đi trình diện học tập cải tạo dành cho đối tượng sĩ quan
nguỵ quân nguỵ quyển. Địa điểm tập trung: trường Trung Học Chu Văn An. Trong
giấy ghi rõ đem theo dồ dùng cá nhân để sử dụng trong 30 ngày. Nhận được giấy
báo, ba mừng như thoát được gánh nặng canh cánh bao lâu nay. Ba bảo:
- Tôi nói có sai đâu bà, bây giờ hoà bình rồi họ không trả thù như hồi Mậu thân đâu. Kỳ này
tôi chỉ đi học có 30 ngày mà ngay tại Sài Gòn này thôi. Xong kỳ học tập này rồi
mình sẽ được đối xử như những người dân bình thường. Tôi tính gia đình mình sẽ
về lại Đà Nẳng sinh sống. Có mắm ăn mắm có rau ăn rau. Khoẻ rồi, hoà bình rồi,
hết chiến tranh rồi bà ơi.
Mẹ tôi, với linh cảm và yếu đuối của đàn bà, lên tận sân bay Tân Sơn Nhất xin
gặp chú nhờ chú giúp đở. Liếc sơ qua giấy báo trình diện học tập chú
nói: - Chị đừng lo, cách mạng khoan hồng, anh cứ đi, học tập
khoản môt tháng là xong. Cứ học tập thật tốt, về sớm đúng ngày,
không sao đâu.
Mẹ tôi an lòng chuẩn bị mền mùng thức ăn khô cho ba. Riêng tôi, qua trực giác và qua sách báo đã đọc, tôi nghi ngờ về chữ học tập tốt mà chú đã nhấn mạnh. Tôi biết là mọi chuyện chỉ mới bắt đầu. Để xoá đi ký ức của một sĩ quan cảnh sát 51 tuổi đời, 25 năm quân ngủ, và để đào tạo thành một người công dân chế độ xã hội chủ nghĩa, chắc chắn không thể là 30 ngày ngắn ngủi như thế. Tôi biết là chú đã không nói thật, và ba thì ảo tưởng hoặc có thể đã biết nhưng muốn che dấu mẹ, cố gượng vui chờ ngày lên đường trình diện. Có những đêm thức giấc giữa đêm khuya tôi thấy ba ngồi lặng lẽ và hút thuốc liên tục ngoài hiên. Đôi vai như quằn xuống, tôi chua xót nhận ra chỉ trong một thời gian quá ngắn ba đã già đi rất nhiều. Trong cái bóng tối mênh mông, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và vô dụng vô cùng.
Một ngày trước khi đi, ba dặn riêng tôi không cho mẹ biết, hai cha con ra chợ
Bến Thành. Ba nói ba còn để dành 2 lượng vàng, bán xong con nhớ đem
về cất riêng, khi nào mẹ và các em cần tiền thì con đưa cho mẹ. Ba không
biết khi nào về, con nhớ phụ mẹ lo cho các em. Thì ra ba không ngây
thơ như tôi tưởng, tất cả nụ cười trên khuôn mặt ba thường ngày chỉ là giả tạo.
Không có mẹ bên cạnh, ánh mắt ba bây giờ mới là thực. Nhìn khuôn mặt hoang mang
đến tội nghiệp của ba ,tôi thấy mắt mình cay cay. Thương ba vô
cùng.
Cuộc mua bán 2 lượng vàng diễn ra nhanh chóng và
lén lút. Tôi ngồi canh chừng công an, ba đưa vàng, người bán đếm tiền gói lại
đưa cho ba, ba đưa tôi. Liếc ngang liếc dọc, bỏ vô túi xách, ôm kè kè bên mình,
về nhà cất kỹ trong két khoá lại, phòng khi bất trắc.
Sáng sớm hôm sau, không nhớ ngày, tháng 8 năm 1975, Ba từ giả gia đình đi
trình diện. Ba ôm mẹ, hôn các em. Mẹ, các em đều khóc. Bé út khóc to nhất. Tôi
ráng cắn chặt răng, mắt cay xè, hối hả đạp xe chở ba đến trường Chu Văn An.
Không ai nghỉ rằng, đó là lần cuối cùng mẹ và các em gặp ba. Trước
cổng trường, đông nghẹt những người đi trình diện và những thân nhân lóng ngóng
bên ngoài. Tay xách ba lô, ba lủi thủi đi vào, trước khi bước qua cánh cửa sắt
có mấy tên công an đứng gác, ba quay lại nhìn tôi như nhắc nhở con
nhớ thay ba lo cho mẹ và các em. Khi bóng ba mờ khuất sau dãy lớp, nỗi đớn
đau kềm hảm bấy lâu vỡ oà, tôi khóc ngon lành như một đúa trẻ. Tôi biết rằng
ngày ba trở về còn xa lắc xa lơ.
Từ khi ba đi, căn nhà trở nên vắng vẻ vô cùng. Mẹ phần lo chạy gạo hằng ngày,
phần lo lắng nhớ ba, gầy đi trông thấy. Tuy nhiên mẹ vẫn hy vọng 1 tháng sẽ
trôi qua nhanh chóng, ba trở về và mọi chuyện sẽ trở lại như xưa. 30 ngày rồi
45 ngày trôi qua, tôi và mẹ bắt đầu sốt ruột lo lắng. Mẹ cứ mỗi ngày
hết đi ra lại đi vào, hết lên phường hỏi thăm rồi lại lên Tân Sơn Nhất tìm
gặp chú. Vẫn là 1 câu trả lời:
- Chắc sắp được về thôi. Anh học tập tốt thì cách mạng sẽ cho về, chị
đừng lo.
Câu chị đừng lo càng lúc càng trở thành vô dụng khi bao tháng trôi qua, vẫn không một tin tức gì về ba. Vừa phải lo cuộc sống vừa phải chạy đôn chạy đáo hỏi thăm đầu này đầu nọ, mẹ già hẳn đi. Cuộc sống càng ngày càng khó khăn cho một gia đình 11 miệng ăn. Đồng lương ít ỏi của tôi không đủ nuôi sống cả gia đình, mẹ bắt đầu đem đồ đạc trong nhà ra chợ bán. Chú thì thỉnh thoảng vẫn ghé thăm nhưng thưa thớt hơn nhiều. Có lẽ vì bận rộn nhưng cũng có lẽ sợ không biết phải trả lời sao với mẹ. Không lẽ đợi anh học tập tốt, cách mạng khoan hồng, hay là chắc mai về khi mà ngày mai của chú có thể là một ngày không bao giờ đến.
Thấm thoát rồi cũng qua một năm. Mẹ vẫn mỏi mòn chờ đợi trong vô vọng, ba
vẫn biền biệt phương nào. Không một tin tức, không một dấu vết, dù nhỏ nhoi.
Những đồ vật có giá cuối cùng trong nhà cũng đã bán hết. Hai mẹ con ôm nhau
khóc. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến số tiền bán 2 cây vàng dấu trên gác. Một số
tiền khá lớn thời bấy giờ. Ai ngờ khi mở gói tiền tôi sững sờ nhìn thấy
nguyên bó tiền chỉ có hai tờ đầu là tiền thật , ở giữa toàn là giấy báo.
Thì ra lợi dụng việc mua bán chui lén lút, vừa bán vừa canh chừng công an, khi
đưa tiền, người bán đã tráo đổi gói tiền đang đếm bằng gói tiền gói sẵn.
Cho đến khi chết chắc ba cũng không thể ngờ những đồng tiền cuối cùng ba để
dành cho mẹ là con số không to tướng.
Trong những tháng năm sau đó, cuộc sống càng ngày càng khó khăn. Không còn cách
nào khác , mẹ vẫn mỗi ngày tiếp tục ra bán chui trước
chợ Tân Định. Sạp hàng là một tấm vải ni lông, cột dây bốn góc để dễ
túm lại khi có công an đến. Thời đó buôn bán trên vĩa hè là phạm pháp. Vừa mua
bán vừa láo liên canh chừng công an. Nếu công an tới thì túm tấm nilông
bỏ chạy vào nhà lồng chợ. Công an đi khỏi, đem hàng ra bày bán
tiếp. Đồ bán khi thì một đôi giày, một chiếc áo củ hay có
khi chỉ là lớp vải lông thú tách ra từ những chiếc áo lính ngày xưa.
Có gì bán nấy. Khởi đầu là đồ đạc trong nhà, sau đó là đồ mua lại
từ những người có cùng hoàn cảnh đem bán. Cũng có khi là đồ chôm
đồ chỉa, cũng lây lất qua ngày. Các em còn qúa nhỏ, chỉ mình tôi với
mẹ, sĩ diện, lòng tự trọng của một kỹ sư cũng đem chôn chặt
trong lòng. Tôi mỗi ngày, sau giờ làm việc cũng ra phụ mẹ, cũng chạy ra
chạy vào, cũng cặp mắt láo liên, vừa bán vừa mua, vừa canh chừng công an.
Trong những ngày vô cùng khốn khó đó, thỉnh thoảng chợt nhớ về thời
thơ ấu cũ lòng thật buồn. Những ngày tươi đẹp ấy đã quá xa.
Những lo lắng về cuộc sống và một tương lai mù mịt, làm tôi
trở nên lạnh lùng chai đá. Dù rằng cũng có đôi khi, tôi một mình khóc thầm
trong đêm.
Như một định mệnh, trong những ngày cùng cực khốn khó đó tôi gặp C.
vợ tôi bây giờ. Người ta hay nói vợ chồng là duyên là nợ. Điều này
rất đúng với chúng tôi. Trước 75 tôi và C. cùng làm chung tại Trung Tâm Bưu
Chính Viễn Thông thuộc Bưu Điện thành phố Sài Gòn. Gặp nhau thường xuyên nhưng
ít khi nói chuyện.
Nàng làm thư ký cho Desai, giám đốc chương trình đào tạo của Liên Hiệp Quốc. Hồi đó C là một người đẹp, nhiều người theo đuổi.
Tôi là kỹ sư mới ra trường. Tốt nghiệp Bách Khoa Phú
Thọ, tôi chọn vào Trung Tâm vì tại đó có học bổng đi học cao học về viễn thông.
Tôi ghét cái kênh kiệu và lạnh lùng của nàng. Nàng thì ghét cái giọng Huế nặng
trịch của tôi. Tôi càng ghét nàng khi bài thi xếp hạng để đi du học của tôi bị
cộng sai điểm. Tôi khiếu nại không được. Và vì vậy tôi bị sắp đi đợt 2
vào tháng 12 thay vì đợt đầu vào tháng giêng năm 75.
Chuyến đi du học tháng 12 bị bãi bỏ do biến cố 75. Tự an ủi xem như chưa có số
xuất ngoại dù trong lòng tôi buồn và tưng tức. Có lẽ, do nợ tôi một món ân tình
quá lớn nên sau này nàng đã phải trả lại tôi gấp nhiều lần hơn. Cùng hoàn cảnh,
cùng thuộc gia đình ngụy quân ngụy quyền, cùng ghét Việt Cộng
như nhau, chúng tôi gặp nhau thường xuyên trong những lần đi nghe các
buổi nói chuyện về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin. Chúng tôi
thường chọn ngồi dưới hàng ghế cuối cùng. Để ngáp, và
để ngủ không bị để ý. Những hàng ghế cuối cùng
trở thành nơi chúng tôi chia sẻ những đắng cay, những mất mát và
những yêu thương. Cuối cùng chúng tôi quyết định nên vợ nên chồng. Dám yêu
đứa con cảnh sát chế độ cũ, tương lai mờ mờ mịt mịt, chắc chắn
chỉ có thể nàng đã quá yêu tôi.
Đám cưới được tổ chức đơn giản. Không rễ phụ không dâu phụ,
không rước dâu. Lạy cha mẹ, lạy bàn thờ gia tộc hai bên, đơn giản chỉ như
vậy. Chỉ một số ít bạn bè thân thiết và bà con
gần. Không có gì phải phô trương khi ba tôi vẫn mịt mù đâu đó trong trại cải
tạo, không biết sống chết ra sao. Em yêu tôi và tôi cũng rất yêu em. Thế là đủ.
Một ngày trước đám cưới chúng tôi nhận được giấy báo từ phường Yêu cầu gia đình ra khỏi nhà trong vòng 48
giờ. Lý do gia đình thuộc diện 28, sĩ quan cảnh sát làm việc cho chế
độ Mỹ nguỵ. Giấy
báo còn cho biết phường sẳn sàng giúp đở, tạo mọi điều kiện để gia đình có
thể lập nghiệp trên vùng kinh tế mới.
Kết thúc vội vàng buổi tiệc mừng đám cưới, hai vợ chồng đạp xe lên sân bay Tân Sơn Nhất xin chú can thiệp giúp đở. Chú nói:
- theo chú thấy đi kinh
tế mới dầu sao cũng tốt cho mẹ và các cháu. Cực khổ lúc ban đầu nhưng
sau này sẽ khá hơn. Hồi chú ở ngoài Bắc cực khổ hơn gấp
trăm lần, có sao đâu. Sau này ba con về còn có chỗ sinh sống.
Trả lời như chú vậy thì chẳng thà nói với đầu gối sướng hơn. Hai đứa chỉ biết
nhìn nhau, thầm nghĩ với tình thế này chắc cũng phải lên đường đi lập
nghiệp trên vùng đất mới mà thôi. Trong lúc cùng đường, vợ tôi chợt
nhớ đến ông xếp cũ từ thời trước 75, một kỹ sư tốt nghiệp từ
Pháp, cựu giám đốc bưu điện nay là cán bộ cao cấp làm việc trong
thành uỷ. Nghe trình bày hoàn cảnh, nghĩ đến mối giao tình thầy trò
ngày xưa, ông nói để ông xuống phường xem thử. Không hiểu ông can thiệp
như thế nào, hai ngày sau phường gửi giấy quyết định cho gia đình tạm
thời ở lại cho đến khi chồng đi cải tạo trở về. Nói theo ngôn
ngữ bóng đá bây giờ, vợ tôi đã cứu gia đình tôi một bàn thua trông
thấy vào phút 90.
Từ khi lập gia đình, tuy có thêm đồng lương của vợ tôi, nhưng vẫn
không thể nào đủ cho một gia đình 11 miệng ăn. Bán chợ chạy của
mẹ thì vất vả mà thu nhập quá kém cỏi. Hai đứa bắt đầu làm thêm
đủ thứ ngành nghề.
Khởi đầu là nuôi heo. Nhờ giấy giới thiệu của cơ quan, mỗi tháng
vợ tôi được mua một cặp heo con với giá rẻ. Chiếc cầu tiêu duy nhất tuy
nhỏ cũng được ngăn ra dành chỗ để nuôi 2 con heo mọi mới đẻ. Mỗi ngày
đi tiêu đi tiểu trong tiếng kêu ủn ỉn của chúng, mới đầu rất khó
chịu, nhưng rồi nghe riết cũng quen, cũng ghiền. Nuôi 1, 2 tháng, đem ra
chợ bán. Lại lên trại mua 2 con khác nuôi tiếp.
Chỉ nuôi heo không cũng chưa ăn thua. Bắt đầu nuôi thêm gà công nghiệp.
Cũng xin giấy giới thiệu lên trại gà mua vài chục gà con, nuôi vài tháng hơi
lớn lớn rồi đem bán. Được vài tháng xuông sẻ, gặp mùa toi dịch, gà heo
chết hàng loạt, cụt vốn, hai vợ chồng nhảy qua làm bánh đậu xanh,
khô, ướt. Mẹ ngâm, đãi đậu, tôi cắt giấy, vợ tôi gói. Mỗi chiều
đi làm về, hai vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ kỷ đi giao bánh cho
mấy tiệm ăn quanh xóm. Không phải bán đứt, ký gửi thì đúng hơn. Giao
bánh, vài ngày sau quay lại. Bán hết thì lấy tiền, giao bánh mới. Gặp lúc
bán không hết, bị mốc, đem về không biết làm gì cho hết, trộn vô cám
cho heo gà ăn.
Cứ vậy, những tháng ngày tiếp tục trôi.
Vợ chồng ốm tong ốm teo như ma đói, nhưng cũng phải ráng
chịu cực mong đợi ngày ba về.
Đến một ngày đầu tháng 2 năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được thư ba,
lần đầu tiên. Góc thư tôi còn nhớ rõ địa chỉ Trại K2 Tân Lập,
Vĩnh Phú. Trong thơ ba hỏi thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học
tập cải tạo tốt. Thư ngắn chưa đầy một trang giấy. Ba nhắc
tôi ráng chăm sóc mẹ và các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc lúc đó đối
với tôi vô cùng xa lạ. Nếu có biết cũng chỉ biết qua sách vở. Vĩnh
Phú ở đâu, ra sao, xa xôi như thế nào, không quan trọng, ít nhất
là ba vẫn còn sống.
Thế là đủ. Quá mừng rỡ mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa em viết một câu cho ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về cuộc sống ngoài này. Tôi ầm ừ cho qua chuyện, trong thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học tập tiến bộ để sớm về với gia đình. Tôi không kể về cuộc sống gia đình từ ngày ba đi. Không lẽ cho ba hay rằng căn nhà đã bị tịch thu, gia đình suýt nữa bị đi kinh tế mới, hay lại kể với ba rằng mẹ mỗi ngày đang bán từng chiếc áo cũ của ba ngoài lề đường. Hoặc kể cho ba chuyện 2 cây vàng. Thôi thì cứ để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con của ba dù là con của sĩ quan chế độ Mỹ nguỵ, vẫn được cách mạng CS đùm bọc thương yêu. Thôi thì cứ như vậy cho ba yên lòng và ít nhất thư cũng đến được với ba. Kể từ hôm đó khoảng hơn mỗi tháng một lần gia đình tiếp tục nhận được thư ba. Mỗi lần chỉ hơn một trang giấy, nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui và hy vọng. Sẽ có ngày ba trở về.
Cho đến một ngày, cũng từ K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội dung ba đang học tập tốt, cán bộ đố xử với ba rất tốt, cũng khuyên các con cố gắng học tập trở thành cháu ngoan của “Bác”, nhưng nét chữ run run, nguyệc ngoạc, khó đọc và ngắn hơn rất nhiều so với các thư trước. Mẹ và các em vẫn mừng rở như mọi lần, nhưng riêng tôi linh cảm một điều gì đó không hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem thư ba lên phòng đọc đi đọc lại nhiều lần. Hình như chữ “tốt” (học tập tốt, sức khoẻ ba vẫn rất tốt được viết đậm hơn, to hơn các chữ khác). Chữ ba viết quá xấu so với bình thường. Rất bất thường. Không tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là bịnh.
Quá lo lắng, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đi thăm ba. Lên phường xin giấy phép đi ra Bắc, bị từ chối. Phải có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về. Hồi đó muốn đi Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, người dân bình thường như tôi phải làm đơn xin phép, phải có lý do chính đáng và phải có người bảo lãnh. Thời gian được cấp giấy phép thường rất lâu nhất là đối với những gia dình thuộc diện nguỵ quân nguỵ quyền như chúng tôi. Lên gặp chú nhờ chú can thiệp giúp đở, chú nói cũng y hệt như mấy ông cán bộ phường:
- khi
nào họ cho phép thăm nuôi thì ba con sẽ gửi giấy tờ về.
Chú trả lời như vậy thì kể như không nói. Thật lo lắng cho
ba, nhưng không biết làm sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba sức
khoẻ, và mong chờ một phép lạ. Và phép lạ cuối cùng cũng đã xảy ra
Ở hiền gặp lành. Tháng 8 hiệu trưởng loan báo có
đợt cho nhân viên và giáo viên trường Bưu Điện đi tham quan miền bắc xã hội
chủ nghĩa và du ngoạn tại bãi biển Đồ Sơn 1 tuần. Tôi và
vợ tôi có tên trong danh sách được đi. Lúc đó vợ tôi đang mang thai
đứa con đầu được 5 tháng. Phần làm việc vất vả, phần thể trạng yếu đuối,
khộng dám đi xa, vợ tôi đành ở nhà. Tôi đi ra miền bắc một mình.
Không phải vì yêu “Hà Nội xã hội chủ nghĩa” cũng không phải
để tắm biển Đồ Sơn, mà trong lòng tôi đang hình thành một
kế hoạch đi tìm ba.
Cả đoàn đi ra Hà Nội bằng xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu là phần nghe
giảng về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin, về miền bắc xã hội
chủ nghĩa 4 ngày tại Hà Nội. (Phần này bắt buộc không ai được vắng mặt).
Phần sau 3 ngày là về nghỉ ngơi vui chơi tại bãi biển Đồ Sơn. Phần này kỹ luật
tương đối lỏng lẻo hơn. Đa số các cán bộ quê miền Bắc nhân thời gian
này tranh thủ về thăm gia đình, chỉ có những người miền Nam lần đầu
tiên ra Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn. Tôi thì đã có kế hoạch
từ trước xin trưởng đoàn ở lại Hà Nội với lý do thăm gia đình
ông chú ruột là trung tá Chính ủy đơn vị phòng không không quân. Cũng phải
viện một lý do gì đó để đơn xin có trọng lượng. Cũng phải cho
trưởng đoàn biết là con nguỵ nhưng cũng có bà con là cán bộ cộng
sản dù trong thâm tâm tôi biết ông chú đi cách mạng có
cũng như không, khó nhờ vả sơ múi gì đuợc. Hồn ai người nấy giữ.
Thế là những ngày đầu thánh 9 năm 1978, tôi bắt
đầu chuyến hành trình tìm cha. Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất
cả điều xa lạ. Manh mối duy nhất là địa chỉ trên thư: K2 Trại cải tạo
Tân Lập Vĩnh Phú. Phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp Phượng Hoàng mượn của
ông chú.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú: khu Tập thể Nam Đồng,
Đống Đa, Hà Nội. Trạm đầu tiên: Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng
rong ở ga. Vĩnh phú thì nhiều người biết nhưng trại Tân
Lập ở đâu thì không ai hay. Thôi thì cứ lên tàu đi về hướng
Vĩnh Phú trước đã.
Đúng là tàu chợ, xe lửa thì củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt người, đa số là người lao động và người bán hàng rong. Vì vướng chiếc xe đạp, chật vật lắm tôi mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu chuyển bánh. Vì lên sau cùng, tàu đông kịt người, chỗ đứng chổ ngồi hầu như không còn, tôi ngồi xuống một khoảng trống sát vách cầu tiêu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng người cùng tiếng nói, cùng một màu da.
Mỗi một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những em bé bán chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một tin tức mơ hồ từ một em bé:
- Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người
hình như ở trong nam ra vì không giống người ngoài này, đi lao động, hình như ở
gần ga Ấm thượng, Vĩnh Phú. Em
bé nói thêm hình như có trại giam giữ những người miền
nam gần đó.
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng Lạng Sơn. Mùi
hôi thúi bốc lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng hoà quyện vào cái mùi mô
hôi của hàng trăm người đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi mãi suy
nghĩ khi nào thì đến ga Ấm Thượng?. Vì không nhìn được qua cửa sổ,
tôi đành nhờ một bà lão ngồi sát cửa sổ nhắc giùm khi đến
ga.
Xuống được ga Ấm Thượng thì cũng đã giữa trưa. Phải nói là trạm thì đúng hơn. Nhà ga là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoắc. Vùng đất thật hoang vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con đường đất đỏ duy nhất về một làng nào đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa hỏi đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân Lập không? Không ai biết. Phải đến lần thứ 9hay thứ 10 gì đó, khi tôi đã vào sâu khoảng 5, 7 cây số, mới có được câu trả lời tương đối rõ ràng:
- Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dãy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia là biên
giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa diệu vợi, chân tay rã rời, đôi khi tôi kiệt sức muốn
bỏ cuộc quay về. Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên
đường. Con đường càng vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi thì ngoằn nghèo, khi
thì lồi lõm. Có những đoạn không đạp xe được vì mưa trơn trợt, tôi xuống xe dắt
bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa thớt, càng ít người qua lại. Tôi vừa mệt, vừa
sợ, vừa đi vừa nhìn chung quanh, dáo da, dáo dát. Nói thật lúc đó có ai nhảy
ra, phang cho mình một gậy, cướp xe đạp, vất xác xuống ven đường, chắc cũng
không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao
giờ tôi đi đâu một mình như thế này đâu. Hồi nhỏ thì có cha có
mẹ, vào trường thì có bạn có bè. Đi đâu cũng đi với người này hay người
khác. Ngay cả khi đi trồng cây si, cũng rủ thêm Trường Thọ hay Quốc
Chính (đã mất) cùng đi. Đi đâu cũng xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ thì
nhiều nhất là một cây số. Chạy thì nhiều nhất một vòng sân trường là
thở dốc. Vừa mệt vừa sợ cướp, vừa sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa
lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn quay về. Rồi lại nhớ đến
ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba trước cổng trường
Chu Văn An ngày nào, tôi lại lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng là lê là lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp, đất bùn
quyện nước mưa nhão nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt đầu
cảm thấy lạnh. Một cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi khổ chưa
dừng ở đó. Trên con đường độc đạo duy nhất về trại Cải tạo Tân
Lập, tôi phải vượt qua hai con sông.
Quen với cái hiền hoà của giòng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi
thấy con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Dòng nước đục ngầu và
đỏ như máu chảy cuồn cuộn. Đứng bên này nhìn thấy bờ bên kia
nhưng không biết cách nào qua. Không cầu không cống. Không một bóng người. Men
theo bờ sông, tôi đi về hướng ánh đèn leo lét xa xa. Hỏi thăm, thì ra
muốn qua sông thì đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông, chụm
hai tay gọi lớn sang bên bờ bên kia “ Đò ơi…ơi”
Thế là từ bên kia bờ, chênh chếch phía trên có một thuyền nhỏ một người
chèo qua. Nói thì rất dễ dàng nhưng để băng qua được bên này không dễ chút
nào. Khoảng cách hai bên bờ không lớn lắm, nhưng do nước chảy xiết,
từ bên kia muốn qua bên này, người lái đò phải khéo léo dựa theo dòng nước
chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp đúng vào kè đá nơi tôi đứng. Điều khiển
không khéo thì thuyền lật như chơi, còn nếu không thì thuyền tắp xuống quá
kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đò giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nhìn người lái đò, nhìn
dòng nước sông dục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn văn của Nhất
Linh, của Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về các tỉnh miền Bắc xa xôi này.
Hình như nơi đây, bánh xe thời gian đã ngừng lại. Giống y chang như trong các
bài văn ngày nào. Vẫn như xưa, nếu không nói là cũ kỷ hơn, nghèo khổ hơn. Và có
lẽ vì vậy người dân ở miền đất sát biên giới Việt Trung này hiền lành và chơn
chất gấp vạn lần những con người tôi găp ở Hà Nội. Vì vậy, may mắn tôi vẫn
còn cái mạng quay về.
Đi thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự thì trời đã tối
đen. Lúc này tôi không còn đạp xe được nửa. Tôi dắt xe, vừa đi vừa run cầm cập.
Dân thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy nỗi sợ hãi
cùng cực khi một mình giữa đồng không mông quạnh, âm thanh là tiếng côn trùng ếch
nhái, thỉnh thoảng là những ánh đom dóm lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da
của ban đêm và mưa phùn miền Bắc. Khổ không thể cực khổ hơn.
Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu không vì ba tôi đã bỏ cuộc
từ lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một căn chòi trống ven
đường. Đây có thể là nơi tạm trú của những nông dân hay của những em bé chăn
trâu nào đó.
Căn nhà (cái chòi thì đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng tre nhỏ
xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng nghỉ mệt. Có thể nói
trong đời đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù rằng những giọt mưa vẫn từ
các khe hở nhỏ xuống lạnh buốt. Bây giờ mới cảm thấy đói. Bửa ăn tối đầu
tiên trên miền đất tận cùngbiên giới của người con đi tìm cha đang học tập
cải tạo là một cái bánh bao không nhưn mua vội trên tàu. Cái gọi là bánh
bao thật ra chỉ là một cục bột hôi mốc nhờ mưa ẩm ướt làm
mềm đi nếu không chắc sẽ cứng như đá. Nhưng không sao, khi đói thì
đất cát vẫn thấy ngon như thường. Vừa ăn tôi vừa cố nuốt đi những
giọt nước mắt. Cùng với cơn lạnh ban đêm, dù trải qua một ngày không ngủ,
mệt lã, tôi vẫn không tài nào chợp mắt được. Tôi ngồi bó gối co
ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy cái vô tận của đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất khá
dài, khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được trại Tân Lập. Thật
ra cái tôi gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô quạnh này là một ngôi nhà
tranh, tương đối lớn, phía trước có treo một tấm bảng nhỏ “ K10 Tân Lập”. Bên
trong là một cái bàn dài có hai dãy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh gác.
Tôi nghĩ đây là nhà khách. Đợi một lúc quả nhiên tôi thấy một công an đi ra.
Tôi trình giấy tờ, ghi rõ là cán bộ Bưu Điện ra Hà Nội công tác luôn tiện thăm
cha đang học tập tại K2 Tân lập.
Mừng hụt. Trại cải tạo Tân Lập thì đúng rồi nhưng đây là nhà khách
thuộc K10. Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong thì
bắt đầu từ khu K10, K9…cuối cùng sát biên giới là khu K1. K10 là khu vực đầu
tiên của trại Tân Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ có những trại giam,
cán bộ và tù nhân. Sau này tôi mới biết khu trại Tân Lập không chỉ giam giữ các
tù nhân từ trong Nam mà còn là nơi giam giử các thành phần bất hảo ăn cắp ăn
trộm ngoài Bắc. Thành phần này được giam ở các khu K10, K9 gần phía nhà
dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền nam được phân loại và giam giử theo thứ tự ,chức vụ
càng cao, càng ác ôn thì được đưa về các khu số nhỏ K1, K2 sát núi gần biên
giới, khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát. Nếu có vượt thoát được
công an ở các khu vực K1, K2, K3…thì chắc không qua được các thành
phần bất hảo của K9, K10. Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát khỏi trại, mặc áo
tù đi lang thang 30 Km, ra khỏi đây không bị bắt trở lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai mì, những cánh đồng
trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán người mặc áo tù đang cuốc đất.
Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này đường đất tương đối dễ đi hơn.
Tôi cúi thấp người cố gắng đạp thật nhanh. Đi riết rồi cũng đi qua hết khu K3
và bắt đầu vào địa phận K2. Có lẽ khoảng 10 giờ sáng, mưa phùn vẫn còn rơi.
Tính ra từ sáng tới giờ tôi đã đi một lèo gần 4 tiếng đồng hồ. Không ăn uống gì
nhưng tôi vẫn không cảm thấy đói. Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp được
gặp lại ba. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện gì sẽ kể cho
ba. Tự nhủ phải thật bình tỉnh, phải không được xúc động, phải không được khóc.
Nghĩ tới lúc sắp gặp ba, quên cả mệt nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ khoảng 5 đến
10 mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ , người đang cuốc đất, người
đang vác những bó củi khô, cạnh đó mấy tay mặc áo vàng đội mũ cối,
cầm súng đi qua đi lại. Tôi biết chắc chắn đó là những tù nhân đang lao
động cải tạo. Như một phản xạ tự nhiên, tôi đạp xe chậm lại, đưa mắt nhìn
quanh. Cùng lúc một tù nhân đang đội nón lá lui cui gần vệ đường ngước mắt nhìn
về phía tôi. Dù đã bao năm qua không gặp, dù bây giờ đã quá khác xưa, gầy gò,
mặt mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ, nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba. Nhảy ra
khỏi xe, tôi thảng thốt kêu lên một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều người
quay lại hướng về phía tôi trong đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven
đường. Trong khoảnh khắc, tôi bắt gặp đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt
của con thú hoang ngây dại và đầy vẻ lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia
lịa như muốn tôi đứng lại và chỉ về phía căn nhà xa xa. Tôi khựng lại,
tôi biết tôi không được quyền đứng lại hay trò chuyện với ba. Nuốt giọt
nước mắt đang chực chờ chảy, tôi lên xe phóng nhanh về căn nhà khách, không
quên nhìn lại ba. Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy gò yếu đuối run
run ngã quị bên đường.
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một công an mặt áo vàng, gương mặt gầy nhọn,
non choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ an. Tôi đưa giấy tờ chứng nhận là cán bộ
giáo viên trong nam ra công tác Hà Nội tranh thủ thăm cha đang học tập cải tạo
ngoài này. Sau khi xem giấy tờ, tên cán bộ hỏi tại sao tôi biết nơi này. Không
lẽ nói do tự tìm kiếm, tôi nói do chú là Trung tá chính ủy chỉ đường. Thái độ
có vẻ nhã nhặn hơn nhưng gã ta cho biết là tôi không thể thăm được ba tôi lần
này được với lý do: - Ông
nhà đang trong thời kỳ bị kỹ luật do vi phạm nội quy của trại, đang bị biệt
giam.
Thú thật nếu không gặp mặt ba ngoài kia, chắc chắn tôi đã phải tin lời quay
về. Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt bàn tay dằn cơn giận dữ. Xuống
nước:
- Nhưng thưa cán bộ tôi mới gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
- anh có chắc không? Ông đang bị biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc anh
nhìn lầm.
Sao có thể lầm ba với ai được. Dù có bị đày đoạ cở nào, dù ba có thay đổi bao nhiêu, thì tôi vẫn không bao giờ lầm ba với ai khác. Cặp mắt ấy, con người ấy với tôi là duy nhất. Đuối lý nhưng tay công an vẫn khăng giữ vững ý định không cho tôi gặp ba. Nhiều lý do được đưa ra: Thứ nhất đây không phải là mùa thăm nuôi, thứ hai tôi cũng không có giấy phép (hèn chi các nhà khách tôi đi qua vắng như chùa bà đanh).
Tôi cố gắng trình bày là đi công tác đột xuất, hơn nữa
đường đi xa xôi, đã lỡ đến đây rồi, xin cán bộ thông cảm. Làm ra vẻ tử tế,
lão cán bộ chép miệng:
- thật ra tôi cũng muốn thông cảm cho anh, không phải tôi làm khó dễ
nhưng thú thật không thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng cứng rắn. Lão nỗi
nóng:
- nhưng tôi nói không gặp được là không gặp được, anh về khi nào có giấy tờ
thăm nuôi thì chúng tôi sẽ giải quyết.
Nhìn khuôn mặt tên cán bộ mặt mày lấc cấc, máu tôi sôi
lên, tôi muốn đấm cho nó một cái, ra sao thì ra. Nhớ đến ánh mắt của ba
ngoài kia, cặp mắt ngây dại của con thú hoang đang co cụm dẫy chết. Nhớ đến đôi
vai gầy gò run rẫy trong gió lạnh ngoài kia, lòng tôi dịu lại, tự nhiên tôi bật
khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa khóc tôi vừa năn nỉ tên cán bộ đáng tuổi em
mình. Tiếng khóc động đến lòng trời, đúng lúc một tay cán bộ nữ bước vào.
Có lẽ khuôn mặt một người đàn ông đang khóc nhìn thê thảm, xấu xí và cảm động
quá, sau khi bàn bạc, cán bộ nữ đồng ý cho tôi được gặp ba nhưng chỉ được gặp
đúng 15 phút mà thôi. Dù sao đàn bà vẫn là đàn bà, vẫn tình cảm hơn.
Chờ khoảng một tiếng, một tên công an đi vào, theo sau là ba tôi. Lúc này tôi
mới có cơ hội nhìn rõ ba. So với hồi ở nhà, hoàn toàn khác hẳn. Khuôn mặt đen
sạm, tóc tai bạc trắng, râu dài tới ngực, mặc bộ đồ tù cũ kỷ, tay cầm chiếc nón
lá rách tả tơi. Không kềm được tôi phóng người về phía ba, hai tay dang rộng.
Ba giật mình bước tránh qua một bên miệng lắp bắp "dạ thưa cán bộ, tại
con tôi không biết”. Nói xong ba lầm lủi theo tên công an đến chiếc bàn tre
chính giữa phòng. Đợi tên công an ngồi xuống chiếc ghế ở giữa hất đầu ra lệnh,
ba ngồi xuống ở chiếc ghế đầu kia đối diện với tôi. Tên CA hất hàm:
Anh có 15 phút để nói chuyện với ông.
Dù tự nhủ phải cố gắng bình tỉnh nhưng vẫn không thể
được, tôi oà khóc như một đứa bé. Trong khi đó ngoài trừ cặp mắt ánh lên một
nỗi niềm khổ đau vô hạn, ba bình tĩnh hơn tôi nhiều. Ba nói trước, ba hỏi thăm
về mẹ, về các em. Cũng vẫn là lời lẽ như trong các thư ba gửi về. Thỉnh thoảng
dù rất cố gắng kìm lại nhưng ba vẫn húng hắn ho. Tiếng ho vẫn đục như có đàm
chận trong cổ. Vừa khóc, vừa trả lời tôi mãi nhìn ba, muốn nhảy đến
ôm ba vào lòng. Nhưng khoảng cách hai đầu chiếc bàn quá xa và tên
công an ngồi chính giữa như một bức tượng lạnh lùng, đe doạ. Tôi để cho ba hỏi
ba nói và tôi trả lời. Có nhiều điều muốn hỏi, muốn kể với ba nhưng nỗi xúc
động làm tôi không nói được nên lời.
Thật ra nếu nhớ ra, có hỏi, chắc chắn cũng là câu “cách mạng khoan
hồng, ba học tập tốt sẽ được cho về ”. Nhìn ánh mắt ba, tôi biết
sẽ không bao giờ ba học tập tốt được, ngày về sẽ còn xa lắc xa lơ. Tôi lấy từ
trong túi sách, mấy gói thực phẩm khô, chuối khô do mẹ làm, một ít bánh đậu
xanh, mấy hộp diêm một tút thuốc lá đen đẩy về giữa bàn về phía Ba. Ba đẩy tất
cả về phía tên CA, miệng nói: nhờ cán bộ giữ giùm. Cặp
mắt sáng lên, mặt bớt lạnh lùng, tên CA đem các món đồ vào chiếc tủ nhỏ ở góc
phòng. Không biết ba sẽ nhận được lại các món này hay không, tôi không có tâm
trí để nghĩ đến.
Tôi cứ mãi nhìn người đàn ông gầy gò tội nghiệp và yếu ớt đang ngồi trước mặt
mình không nói được lời nào. Nước mắt cứ không ngừng tuôn. Nói chuyện được
khoảng 15 phút tên công an lạnh lùng đứng dậy tuyên bố hết giờ. Ba chậm chạp
đứng lên, cặp mắt nửa như ngây dại, nửa thảng thốt, nửa tiếc nuối nhìn tôi,
bước theo tên công an ra khỏi nhà khách. Không kìm được, tôi vùng chạy tới, ôm
choàng lấy ba khóc như mưa. Lần đầu tiên tôi thấy mặt gã công an như dịu lại,
quay mặt ra nơi khác. Bây giờ thì ba cũng khóc. Không biết chúng tôi đứng bên
nhau được bao lâu cho đến khi tên CA kéo tay Ba tôi đi. Ba lủi thủi đi không
quay lại. Cái dáng đi khòm khòm, nhẫn nhục đến tội nghiệp.Và đó là lần
cuối cùng tôi gặp ba. Còn sống.
Sau chuyến đi gặp ba trở về, biết được địa điểm, lo lắng về tình trạng sức khoẻ
của ba, mẹ suốt ngày hối thúc tôi đưa mẹ đi thăm ba. Thời đó người dân bình thường
nếu muốn ra Bắc phải làm đơn ra phường xin phép. Với gia đình nguỵ quân nguỵ
quyền như gia đình tôi, xin giấy phép càng khó khăn hơn, thời gian chờ đợi lâu
hơn. Phường thì bảo phải có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về mới cấp. Đợi
giấy phép thì không biết đến khi nào. Lên gặp chú thì chú chỉ ngược về phường.
Cũng như không. Mẹ thì cứ sốt ruột, đi ra đi vào. Suốt ngày mẹ như lửa đốt, bỏ
ăn bỏ làm. Các em thì còn nhỏ dại, cũng chỉ hai vợ chồng chúng tôi trăm phương
nghìn kế ,tính đủ mọi cách cũng chưa biết phải làm thế nào.
Tình cờ (đến lúc này thì tôi tin có những sự tình cờ do ơn trên sắp đặt), tôi
được lệnh ra Hà Nội tham gia lớp tập huấn dành cho giáo viên môn mạch điện
tử. Lấy lý do là lần trước vợ tôi chưa đi Hà nội, tôi xin phép Hiệu
trưởng cho vợ tôi được nghĩ phép cùng đi. Do quan hệ tốt và có lý do chính
đáng, hiệu trưởng đồng ý ký giấy phép dù bây giờ vợ tôi mới sinh con đầu lòng,
sức khoẻ còn yếu lắm. Thật ra chúng tôi đã có kế hoạch từ trước. Giấy phép đi
Hà Nội có ghi rõ tên tôi và vợ tôi NGUYEN THI CUC, cán bộ Trường Bưu Điện Thành
phố ra Hà Nội công tác. Chữ trên giấy phép do chúng tôi điền và đưa hiệu
trưởng ký. Chữ CUC sau này được sửa thành chử LỘC, tên của mẹ tôi. Thế là
tôi và mẹ có giấy phép ra Hà Nội công tác, dĩ nhiên chính là để thăm cha.
Lần trước khi thăm ba, do không biết đường đi cũng như không hy vọng gặp được
ba tôi chỉ đem một ít đồ dùng. Kỳ này mẹ chuẩn bị chu đáo hơn. Bao nhiêu tiền
dành dụm, mẹ đem ra mua hết. Sửa đặc, cơm khô, thịt chấy, bánh đậu xanh, áo
quần ,thuốc lá (nên nhớ hồi đó mọi nhu yếu phẩm, gạo cơm, thức ăn đồ dùng đều
được cung cấp theo chế độ tem phiếu, có tiền cũng rất khó mua). Chúng tôi phải
dùng mọi cách, từ vay mượn đến năn nỉ xin xỏ gom góp cũng được khoảng hai bao
tải gần 60 kg.
Hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi xong công
việc thanh thủ cuối tuần hai mẹ con cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ hướng
Cao Bằng Lạng Sơn về ga Ấm Thượng. Do đã biết trước địa điểm, lại háo hức mong
gặp ba, chuyến đi này diễn ra xuông sẽ nhanh chóng hơn lần trước. Vượt 30 km
đường bộ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 vào lúc nửa đêm.
Mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp
lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức không ngủ được.
Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất hình sự. Tôi
trình bày lý do, giấy tờ và xin phép được gặp ba. Gã cầm giấy tờ đi vào bên
trong. Độ khoảng 15 phút, gã đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm đăm. Gã nói: Rất
tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỹ luật
vì vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng
tôi sẽ chuyển cho ông. Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gã một mực cương
quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to hơn.
Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà càng lớn tiếng. Không có nỗi đau nào
bằng nỗi thất vọng lúc này của chúng tôi. Khóc hết nước mắt vẫn không lay
chuyển, mẹ tôi càng la càng hét. Gã công an lúng túng không biết xử lý như
thế nào với tình thế phát sinh lúc này. Mẹ tôi lúc này như một người mất trí,
khuôn mặt nhể nhoại mồ hôi. Cặp mắt đỏ ngầu. Những người đến thăm nuôi và cả những
cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về phía bàn chúng tôi. Tình hình căng
thẳng đến nỗi đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai
người thầm thì nhỏ to gì đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu
giọng:
- Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật
hiện nay ông nhà đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà
về đi. Tuần sau bà quay lại. Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi
bình thường. Còn bây giờ bà
cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một
thứ gì.
Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc
là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần . Nhìn khuôn mặt hiền lành
của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gã đã rất thiệt tình. Tôi nói nhỏ với
mẹ, mình về thôi. Tuần sau lên lại hy vọng họ giử lời hứa cho gặp được Ba
lâu hơn.
Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba
bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ đem
nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi. Để ấm nước xuống bàn, người
này đi chầm chậm về phía chòi vệ sinh sau khi ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt nhấp
nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gã cán bộ công an đi vệ sinh.
Bước vội nhanh vào phía trong vừa kịp thấy dáng khòm khòm của người tù nhân bước ra. Tôi bước vào, nhìn quanh chòi vệ sinh được xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa nửa kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nhìn quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm hình như người tù nhân muốn cho tôi biết một điều gì đó. Tôi nhìn quanh, quả đúng như linh cảm, trên góc đòn tre phía trái, tôi thấy một mãnh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một dòng chữ: Ông D. bệnh nặng.
Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào phòng tiếp tân. Dù rất xúc động nhưng tôi vẫn còn giữ chút bình tĩnh kéo mẹ ra góc phòng báo tin. Mẹ vững vàng và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và nói:
- Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày. Gã cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị biệt giam, không được phải cả tuần chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.
Đến lúc này nỗi uất ức trong lòng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:
- Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các ông có còn là con người không.?
Đến lúc này thì mẹ tôi không còn biết sợ là gì nửa, tất cả những oán hận chất chứa trong lòng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả phòng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gã cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc nãy. Gã dịu giọng nói với chúng tôi:
- Xin bà bình tỉnh, mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải quyết.
Nói xong gã ra lệnh cho hai công an dìu mẹ tôi vào căn
phòng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện. Căn
phòng sạch sẽ hơn phòng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:
- Bây giờ tôi xin nói
thật về tình trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích
cực chữa chạy cho ông. Nay bà đã biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp
ông. Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi
một lát.
Nói xong gã bước ra , nói nhỏ gì đó với tay công an trực. Tay công an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút gì đó gã trở về, bước đi gấp gáp, hấp tấp. Lại thì thầm to nhỏ với viên chỉ huy.
Linh cảm không hay đến với tôi. Lần này viên sĩ quan
trầm giọng: - Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù
chúng tôi đã tận tình chữa trị ,nhưng vì sức yếu , ông nhà vừa mất cách
đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ lo chôn cất ông nhà
đàng hoàng tử tế.
Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la.
Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không đem ra chửi. Vừa
chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ dính đầy áo
quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại. Tôi ôm mẹ không nói được nên
lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau
như kim châm và mẹ ngất đi.
Chúng tôi được dẫn di gặp ba lần cuối. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn sơ gọi
là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ. Ba nằm trên
một giường tre, thân hình gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu
lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng không dài thòn như lần đầu
tôi gặp. Hình như đã hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi xuống đất vói
tay ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm chầm lấy ba.
Vẫn còn hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt
mắt ba. Mắt trừng trừng nhìn ba. Hình như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu.
Sẽ không bao giờ tôi quên được cái hình ảnh của ba mẹ tôi trong bệnh xá trại K2
Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi kéo mẹ
đứng lên.
Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp hối
nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để găp mẹ
một lần và ba cố gắng húp được một muỗng cháo trắng. Muỗng cháo trắng cuối
cùng trước khi ra đi mãi mãi. Giá mà tay cán bộ có một chút tình người thì có
lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một
cuộc tình ba mươi mấy năm. Tôi biết ba đã không đành lòng ra đi. Đành lòng
sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ còn cách một bước
chân thôi mà mẹ không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để
được nghe một lời trăn trối sau cùng. Tức tưởi và uất hận lắm
ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên lòng ra đi rồi có ngày mẹ ba và chúng con sẽ lại
gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng
hạnh phúc bên nhau như thuở nào.
Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân
tương đối đàng hoàng. Có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào các
manh chiếu mây tre rách rưới và được vùi sơ sài trong các khuôn đất trống bên
trong trại. Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên có hòm làm bằng gỗ ván
thông mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm. Cũng có 4 người tù
khiêng quan tài . Phía trước và phía sau có 4 công an đi cùng. Cũng có ly hương
là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba
còn sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ
đi về phía 1 đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi, tôi để
ý thấy có những gò đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh. Nơi chôn ba là
một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội 1
lớp đất không sâu lắm, hòm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một
sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận
cùng biên giới Việt Trung. Một mình , lạnh lẽo. Mẹ không còn nước mắt để khóc.
Suốt buổi nhìn trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy
oán hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặc môi đến tươm máu. Thôi ba ơi,
hãy yên nghĩ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.
Trước khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.
Tin chồng bà bún bò Huế chết trong trại học tập cải tạo lan truyền một
cách nhanh chóng khu Hồ Tắm Chi Lăng và cả khu chợ Cây Quéo Phú Nhuận. Có thể
có những người chết trước ba nhưng có lẽ ở khu phố Lam Sơn Phú Nhuận ba tôi là
sĩ quan đầu tiên chết trong trại cải tạo được gia đình chôn cất đàng hoàng. Từ
lúc trở về mẹ tôi ngày nào cũng đi khắp xóm. Gặp ai cũng khóc cũng kể về cái
chết của ba, về nỗi uất ức của một người đàn bà đi cả ngàn cây số để cuối
cùng không gặp mặt chồng trước khi lìa đời. Xa ngàn dặm và chỉ gần một bước
chân mà vợ chồng không thể gặp nhau lần cuối. Đớn đau và tàn nhẫn quá. Mẹ khóc,
mẹ kể với sự đồng cảm của bạn bè, của thân nhân và của cả những người không
quen biết. Công an phường và cảnh sát khu vực nhiều lần gặp mẹ, an ủi xoa dịu
và cả đe dọa nhưng mẹ không từ bỏ.
Con người khi đã mất đi phần đời yêu qúy nhất của mình thì còn nỗi sợ nào hơn.
Tôi thì rất lo dù sao tôi vẫn đang làm việc. Các em đang còn nhỏ dại. Nếu bị
trả thù hay mẹ bị bắt vì tội phản động thì gia đình sẽ ra sao?. Nhưng khuyên
cách mấy cũng không làm mẹ thay đổi. Tính mẹ tôi thuở nào cũng như vậy. Khi bà
muốn làm điều gì thì làm cho bằng được. Đã nhiều lần bị đưa ra kiểm điẻm trong
các buổi họp tổ dân phố nhưng mẹ vẫn như củ. Gặp ai cũng kể gặp ai cũng
khóc cho đến ngày chúng tôi nhận đuợc giây triệu tập lên phường.
Lo sợ có chuyện không lành xảy ra cho gia đình, tôi báo tin và xin chú cùng
chúng tôi lên Phường. Không biết có phải vì muốn xoa dịu chúng tôi hay không,
hôm đó Phường mời chúng tôi lên chỉ để đọc quyết định trả quyền công dân cho
ba. Công an phường sau khi thuyết giảng tràn giang đại hải về lòng khoan dung
của đảng và nhà nước đã trao cho mẹ giấy trả quyền công dân vì thành tích học
tập tốt của ba trong thời gian trong trại cải tạo. Sau này tôi mới biết qua
người bạn tù của ba, ba là người thường xuyên bị kỷ luật va biệt giam. Thường
xuyên không tuân thủ nội quy trại. Trả
quyền công dân cho một người đã chết, thật quá tức cười và quá nỗi đắng
cay.
Cuối cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và chúng
tôi cũng phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em vẫn hằng ngày cắp
sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu tiên. Đứa cháu ra đời
chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi khi nhìn con tôi lại
nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi. Cho đến bây
giờ sau bao nhiêu năm tháng tôi vẫn không quên khuôn mặt ốm nhom ốm nhách của
ba trong trại K2 năm nào.
Những năm sau đó, dù vất vả, cuộc sống khó khăn, chúng tôi cùng mẹ cũng kiên
cuờng sống tiếp nuôi các em ăn học. Có những ngày ăn bo bo thay cơm. Có
những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì.( thời đó tại sài gòn chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như
ngoài bắc). Tùy theo lúc, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì,
có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Số luợng nhận tùy theo nhân khẩu của mỗi hộ gia
đình). Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đở ngán. Dù sao
thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày trong tù miền bắc. Tôi tự
an ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong lòng lúc nào cũng
canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ ray rứt nghĩ về nơi lạnh lẽo ba nằm, về nắm mộ hoang
phế nơi tận cùng biên giới.Mẹ thường nói không biết ba mày nằm ngoài đó như thế
nào. Đêm nào mẹ cũng khóc một mình. Càng ngày càng héo hon. Mẹ lúc nào cũng ao
ước đem được ba về. Hết than ngắn lại thở dài.
Ba chết chưa đầy 3 năm, quá sốt ruột, thương mẹ và thương ba nằm lạnh lẽo hiu
quạnh, tôi xin nghĩ phép cùng mẹ ra Hà Nội một lần nửa. Lần này với ý định đem
ba về chôn cất tại Huế bên cạnh ông bà ngoại. Nhờ người giới thiệu, tại Hà nội
chúng thuê được 1 người chuyên về đào mộ cùng đi. Từ sáng sớm 3 người chúng tôi
lên ga Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp
cán bộ trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và bị từ chối. Lý do
phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phài trên 3
tháng. Không còn cách nào khác, không lẽ về tay không, chúng tôi quyết định đào
trộm.
Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn không
hiểu tại sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù
như chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba và một phần do sự
khuyến khích của tay đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của ba nằm ngoài vòng đai
trại, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy ra cho chúng tôi.
Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng tôi đi đến
khu mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rõ đường đi. Vẫn không thay đổi gì nhiều, chỉ khác
là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thành giá trước mộ vẫn còn đó, xiêu vẹo. Dấu khắc
trên cây vẫn còn dù có mờ đi. Và cũng chỉ một mình ngôi mộ của ba nằm ở
đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi mộ nào khác. Có lẽ chỉ một
mình ba tôi là có thân nhân đến tiễn đưa khi chết.
Chúng tôi bắt đầu công việc bốc mộ trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người đào mộ
làm việc chuyên nghiệp và nhanh chóng chạm đến nắp hòm. Nén xúc động, tôi mở
nắp quan tài. Ba nằm đó bộ xương còn nguyên vẹn với da thịt và tóc chưa phân
hủy hết. Chúng tôi đem bộ xương ba lên theo thứ tự đầu, chân,tay, bên phải bên
trái. Mẹ nức nở vừa khóc vừa rửa xương ba bằng nước cánh hồi, sau
đó bỏ vào hai bao lác mang theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu và phần tay chân
bên trái. Bao lác của mẹ gồm xương sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ
dặn phải làm như thề để khi về đem chôn trở lại với hình hài còn nguyên
vẹn.
Chúng tôi lặng lẽ vượt 30km lên đường trở ra ga ấm thượng trong đêm.
Về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội thì cũng đã xế chiều hôm sau. Mệt lã người vì
thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui vì đã đem ba về an toàn. Bây giờ
tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn trước ga , mỗi người ôm chặc
một bị lác chứa xương người. Chúng tôi ăn những ổ bánh mì dai nhách , uống
những ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành .
Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay mình nhẹ
tưng, bừng tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình tôi về phía
trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương
người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống đất chạy
vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng. Đêm đó hai mẹ
con ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài, dài vô tận.
Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi đáp chuyến tàu đầu tiên xuôi nam và đến ga Huế
vào nửa đêm. Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự Bình, cách lăng Thành
Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các ngôi mộ của gia tộc bên
ngoại. Về nhà nửa đêm nhưng đã có rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi về
Huế từ ngày hôm trước. Và có cả ông Cặn hàng xóm, người chuyên môn lo về đám ma
với hòm rương nhang đèn đầy đủ.
Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ nghĩa như
với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp lại theo thứ tự tay
chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với các đồ dùng còn sót lại của
ba. Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An lăng có mặt thật đông. Hôm
đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần dù ba qua đời gần 3 năm. Dù sao mẹ cũng đã mãn
nguyện thực hiện được uớc muốn từ bao năm qua: đưa được ba về , nằm ấm cúng
trong mảnh vuờn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba
ơi, hãy yên nghỉ, chúng con thương ba vô cùng. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho
mẹ và các em được bình an.
Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi, luôn theo
dỏi phù hộ chúng tôi. Độ 3 tháng sau ngày đem ba về Huế, gia đình tôi bỗng nhận
được tin về đưá em gái kế. Người duy nhất trong các anh em tôi ra đi tại bến
bạch Đằng 6 năm về trước. Chúng
tôi nhận được thư của em gái kèm tờ giấy bạc 50 dollars. Không thể nào kể hết
được nỗi xúc động và sung sướng của gia đình chúng tôi lúc đó. Đã sáu năm trôi
qua , tưởng chừng như đã mất em vĩnh viễn. Hạnh phúc lớn nhất kể từ ngày ba mất
đi.
Ngoài niềm vui về đứa em gái, số tiền 50 dollar đối với gia đình tôi hồi
đó là một tài sản đáng kể. Kể từ ngày liên lạc được với gia đình, thỉnh thoảng,
em tôi gửi về lúc thì tiền lúc thì xà phòng, kẹo bánh, đồ dùng điện tử. Quà
nhận được, hầu như tất cả đều được đem bán thành tiền để chi dùng trong
gia đình. Họa hoằn lắm thì chúng tôi mới giữ lại một vài gói kẹo M. M. Chia cho
các em thì mỗi đứa cũng được độ 5-10 viên nhỏ xíu. Hồi đó cái gì từ Mỹ cũng qúy
vô cùng.
Dù không tin có thế giới bên kia, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng có ba luôn ở
quanh quẩn đâu đây, cùng với gia đình và luôn phù hộ cho mẹ con chúng tôi. Cuộc
sống gia đình chúng tôi từ cuối năm 1981 trở đi bớt cơ cực hơn. Tôi ngoài giờ
đi dạy học ở trường Bưu Điện, còn đi dạy luyện thi vào đại học tại nhà học sinh
trong xóm. Vợ tôi nhờ quan hệ tốt với các cán bộ trong trường, khi thì mua thêm
được gạo, khi thì mua thêm được thịt, các bửa ăn trong gia đình cũng được khá
hơn lên.
Các em, kể từ ngày ba được trả quyền công dân,sự phân biệt đối xử tuy vẫn còn
nhưng không quá nhiều như ngày đầu sau 75. Mẹ tôi mở gánh bán bún bò tại nhà.
Gia đình không dư giả giàu có gì nhưng cũng sống được qua ngày một cách hiền
lành, lương thiện. Sau ngày ba mất, chú tôi thi thoảng có ghé thăm nhưng tôi
vẫn cảm thấy một nỗi ngượng ngùng nào đó trong quan hệ của chú cháu chúng tôi.
Mỗi lần nhìn hình ba trên bàn thờ tôi lại nhớ đến khuôn mặt gầy gò, râu tóc bạc
phơ ngày nào trong trại K2 Vĩnh phú. Đôi mắt trừng trừng tức tưởi của ba
cứ ám ảnh trong tôi hằng đêm. Còn lâu tôi mới có thể tha thứ cho chú được. Giá
mà ngày đó chú thu xếp để mẹ tôi ra thăm ba sớm hơn thì có lẽ ba sẽ không
ra đi như thế. Nghĩ như vậy nhưng tôi biết, dù có thương ba bao nhiêu, chú
cũng không thể làm gì khác được.
Trong những đứa em của tôi, đứa thứ ba là đứa ít nói nhưng ghét chú và căm thù
chế độ CS nhiều nhất. Thái độ bất mản trong học hành và trong sinh hoạt hàng
ngày nhất là với các cán bộ miền bắc khiến tôi vô cùng lo lắng, bất an. Em
thường có những lời nói và biểu hiện mà các cán bộ cho là phản động. Có khuyên
mấy cũng không được. Lo sợ em gặp sự không may, tôi bàn với mẹ đưa em ra Đà
nẵng sống với gia đình người chị con bà dì ruột. Và từ Đà Nẳng em là người đầu
tiên trong gia đình tôi vượt biên trái phép sang Mỹ sau 1975.
Năm 1982, chúng tôi nhận giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình ODP.
Chúng tôi nộp đơn xin đi Mỹ và ngay năm đó cả hai vợ chồng cùng nhận giấy tờ cho
thôi việc. Lý do: anh chị đã
nộp đơn đi nước ngoài, không còn đủ tư cách làm việc tại cơ quan Bưu Điện được
nữa. Đây là điều
chúng tôi đã luờng trước nhưng không ngờ đến quá nhanh như vậy. Vào những năm 81-82, gia đình có thân nhân ở
nước ngoài được xem là phản quốc. Nhất là với những người có tư tưởng ra sống ở
nước ngoài như chúng tôi. Chấp nhận bị đuổi việc môt cách bình
thản, vợ chồng chúng tôi bắt đầu khoảng thời gian lăn lóc với đủ thứ nghành
nghề để kiếm sống và tồn tại.
Thời đó nhờ những lần đi chầu chực lãnh quà từ nước ngoài tại phi trường Tân
Sơn nhất rồi đem bán tại chợ đồ ngoại cuối đường Nguyễn Thông, tôi làm quen với
nhiều bạn hàng và cả những người đi lãnh quà như tôi. Mới đầu bán đồ của mình,
sau đó mua lại của những người khác, tôi bắt đầu gia nhập hàng ngủ những người
mua đi bán lại. Có mặt từ sáng sớm tại phi trường, theo chân những người lãnh
hàng về tận nhà, mua rồi đem ra chợ bán kiếm chênh lệch. Hàng hoá từ kẹo, bánh
đến nước hoa, đồ điện tử. Thượng vàng hạ cám, bất kỳ thứ gì miễn là của Mỹ
là mua, là bán. Làm cái công việc không dính dáng gì đến cái bằng cấp tốt
nghiệp của mình.Chỉ cần cái miệng thật dẽo, thật trơn tru. Một đôi khi nhớ
lại những ngày tháng trước năm 1975, thấy mình thật nhiều thay đổi. Cái hiền
lành chơn chất thuở nào như không còn nữa. Thật buồn, thật tiếc nuối.
Cũng may, tôi vẫn còn duy trì lớp dạy sửa chửa Radio TV tại nhà vào buổi tối.
Đó là thời khắc vui nhất trong ngày của tôi. Ít nhất là lúc đó tôi còn thấy
mình còn có ích, còn giống đứa con của ba mẹ thuở nào. Lớp ít học sinh nhưng
tôi đã giảng dạy một cách say sưa. Và cuốn sách sửa TV của tôi ra đời trong
thời gian này. Để in và xuất bản được cũng là một quá trình nhiêu khê nhưng
cuối cùng Hội trí thức yêu nước cũng giúp tôi thực hiện được mơ ước nhỏ nhoi này.
Trong những năm giữa thập niên 80, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện hàng điện tử
second hand. Đây là những mặt hàng điện tử như tivi, tủ lạnh, radio
cassette hư cũ đã qua xử dụng được các thủy thủ tàu viễn dương đem về bán lại.
Các tàu chở hàng đậu ngoài cảng xa. Mỗi khi có hàng về, chúng tôi đi từng nhóm
dùng thuyền nhỏ cặp ra tàu lớn mua lúc từ 5 đến10 cái. Dĩ nhiên đây là
buôn bán trái pháp luật nhà nước. Bị bắt thì hàng bị tịch thu, phạt tiền và ở
tù . Nhưng nếu thoát được thì kiếm tiền nhiều. Đem về sửa lại rồi đem ra chợ
bán.Thời đó có ăn nhất là chuyển hệ TV để xem hình có màu trên TV. Dĩ nhiên
không đẹp và rõ như bây giờ nhưng thời đó là cái mốt của các cán bộ miền
bắc có tiền. Chợ trời điện tử Huỳnh Thúc Kháng hình thành và lớn mạnh trong
khoảng thời gian đó. Sau đó là một loạt các chợ trời Bảy Hiền, Lăng cha cả, Chợ
lớn được thành hình giúp những người có một chút tay nghề về điện tử như
tôi sống sót và tồn tại.
Nhưng cũng chỉ một thời gian. Lúc đầu, buôn bán rất khá, lợi nhuận cao,
sau đó càng ngày càng khó khăn khi mà có nhiều tay trùm có quá nhiều tiền nhảy
vào. Họ không mua từng 5-10 cái như chúng tôi mà họ mua nguyên cả tàu khi vừa
cập cảng. Những tay trùm cán bộ có thế lực và có rất nhiều tiền. Họ có
quan hệ và quyền lực mà những người ít tiền như chúng tôi không cạnh tranh
nổi. Phải là con ông cháu cha. Phải đợi chia lại hàng từ những trùm lớn hơn.
Đôi khi phải qua trung gian 2,3 cấp. Chất lượng hàng cũng kém đi rất nhiều.
Bỏ nghề điện tử, nhảy qua buôn trầm từ Đà Nẳng về Saigon. Nói là buôn trầm cho
oai chứ mình làm gì có tiền nhiều như thế. Thường chỉ ra Đà nẳng nhận trầm từ
ngươi quen, đem vào Sài gòn giao cho mối, ăn tiền chênh lệch. Đi đuợc chục
chuyến có lời dù cũng rất vất vả. Lúc thì lăng lóc trên xe đò khi thì la lết
trên tàu chợ nam bắc. Tôi càng ngày càng ốm nhom ốm nhách. Mặt mũi đen thui.
Chỉ lạ một điều là thời đó dù đi nhiều, tôi lại rất ít gặp người quen,
bạn bè. Nếu có gặp, bạn bè chắc cũng không nhận ra chàng kỹ sư hiền lành
chơn chất trắng trẽo thư sinh thuở nào.
Đi thoát được khoảng chục lần, đến lần thứ 11thì tôi bị quản lý thị trường
bắt. Trầm bị tịch thu, riêng tôi bị giam tại công an Quảng Ngải. 2 ngày trong
trại tạm giam tôi đã suy nghĩ thật nhiều về những ngày tháng đã qua trong cuộc
đời. Hình như tôi đã thay đổi quá nhiều, không còn là tôi của năm xưa.
Cái được thì quá ít, cái mất đi thì quá nhiều. Tôi cay đắng nhận ra rằng nếu
tôi không dừng lại, tôi cũng sẽ mất tôi vĩnh viễn trong một thế giới không
thuộc về tôi. Một thế giới bụi bặm, luờng gạt và xảo trá khác xa với thế giới
ngày tôi sinh ra, lớn lên. Tôi biết, ba ở một nơi nào đó đã rất buồn.
Bỏ nghề buôn bán, bỏ qua ý tưởng làm giàu nhanh chóng, tôi quay lại nghề dạy
điện tử của mình. Vẫn là nghề phù hợp vói mình nhất. Dù không có nhiều tiền
nhưng 1+1 là 2 thì vẫn dễ hơn là 1+1=3. Vẫn là vợ tôi bên cạnh trong những thời
khắc khó khăn với những an ủi và chia sẻ. Nàng luôn ủng hộ tôi trong những
quyết định quan trọng và chúng tôi có đưa con thứ nhì. Con gái. Tôi
thầm nghĩ, ba đã cầm tay, dẫn dắt tôi bắt đầu làm lại.
Năm 1988, gia đình được gọi đi phỏng vấn ở toà lãnh sự
Hoa Kỳ tại Sài gòn. Với giấy tờ đầy đủ, hợp lệ cuộc phỏng vấn đáng lẽ đuợc diễn
ra một cách nhanh chóng đột nhiên bị dừng lại khi có phái đoàn cấp cao từ Thái
Lan ghé thăm, lúc đó trong phòng, mẹ đang chuẩn bị trả lời. Vị trưởng đoàn có
vẻ ngạc nhiên khi đọc hồ sơ của gia đình, nhất là chuyện liên quan đến ba tôi,
người sĩ quan cảnh sát chết trong trại cải tạo sau 2 năm 6 tháng học tập . Ông
ta có vẻ ngạc nhiên về tờ giấy trả quyền công dân của ba tôi.Có lẽ là lần
đầu tiên ông thấy được một loại giấy tờ như vậy. Giấy trả quyền công dân
cho một người đã chết.
Mẹ tôi vừa khóc vừa kể chuyện của ba. Câu chuyện về một cái chết và một chuyến
đi thăm nuôi tức tưởi đã làm ngươì lãnh đạo đoàn thanh tra ODP cảm động.
Chỉ một thời gian ngắn mẹ và các em tôi được giấy chấp thuận đi Mỹ theo diện HO
thay vì theo diện đoàn tụ gia đình dù rằng ba tôi ở tù chưa đến 3 năm. Tôi biết
có sự can thiệp đặc biệt của phái đoàn từ Thailand và tôi thầm tin có sự phù hộ
của ba. Riêng vợ chồng chúng tôi tôi ở lại vì lúc đó có gia đình và sổ hộ khẩu
riêng.
Vài tháng sau Mẹ và các em tôi đi Mỹ. Vợ chồng chúng
tôi ở lại với 2 con nhỏ và bà cô em ông nội không chồng. Cũng may nếu tôi cùng
đi thì không biết bà cô sẽ ra sao. Cuộc sống sau những năm 1990 của chúng tôi
ngày càng ổn định. Lúc này, ngành điện tử và vi tính bắt đầu phát triễn. Các
công ty nước ngoài bắt đầu thiết lập các văn phòng đại diện và quan hệ buôn bán
tại việt nam. Tôi được tuyển vào làm việc lần lượt tại các văn phòng đại diện
của Hewlett Packard, Brother, AT&T và cuối cùng là AMP tại Việt nam.
Đó là khoảng thời gian tôi sống sung sướng và sung túc nhất kể từ ngày
mất nước 1975. Thời kỳ này, tôi sống và làm việc đúng với khả
năng,với kiến thức từ khoa điện trường đại học Phú Thọ. Nếu không có thời
kỳ mở cửa này, nếu không có những công ty nước ngoài, có lẽ suốt đời, tôi đứa
con một sĩ quan cảnh sát chế độ cũ, đã sống một cách tối tăm và mất hút đâu đó
trên chính quê hương đen tối của mình. Vào những năm 90, tiền lương 700
usd của là một con số không nhỏ nêu không muốn nói là lớn. Quan trọng
hơn, đó là khoảng thời gian tôi được tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua
những chuyến đi học tập ngắn ngày tại Singapore, Thailand, Malayia, Indonesia,
và Philipine.
Đi học và về, tôi liên tục tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu các sản phẩm và
công nghệ mới của HP. Brother, AT&T và AMP tại Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẳng…
Tên, hình ảnh tôi được đăng trên báo. Ra đường tôi đã có quyền ngẫng
cao đầu. Ba tôi chắc chắn đã rất sung sướng, tự hào về tôi. Một
khoảng thời gian hạnh phúc và có ích. Tôi đã tìm lại chính con người thật của
mình.
Năm 1998, tôi được chấp thuận đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Bấy giờ
tôi đã có 3 đứa con với cuộc sống rất ổn định, sung túc. Những chuyến đi
nước ngoài thường xuyên. Có nhà riêng. Con đầu đang học đại học. Mọi chuyện
suông sẻ, thuận lợi. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Đi hay ờ . Một quyết định
không dể dàng.Với tuồi gần 50 làm gì nơi đất khách quê người. Đã quá già để làm
lại từ đầu. . Xin hoản ngày đi 3 tháng rồi cũng đến lúc phải quyết định, nếu
không hồ sơ sẽ được xếp lại. Cơ hội đi doàn tụ sẽ không còn.
Thật ra nếu chỉ nghỉ đến riêng cho vợ chồng tôi thì câu trả lời sẽ rất dễ dàng,
đơn giản. Tội gì phải ra đi khi đang có một cuộc sống ổn định và quá đầy
đủ vào lúc đó. Trưởng văn phòng đại diện một công ty nước ngoài tại
Sàigòn. Đi nước ngoài thì năm nào cũng đi 3, 4 lần. Tháng nào cũng 700-800
dollar bỏ túi. Công việc thì dễdàng. Xếp trực tiếp thì ở
tận Singapore. Vài tháng mới qua Việt Nam 1 hay 2 lần. Một tài xế, một cô
thư ký xinh đẹp, vài ba nhân viên dưới quyền và một người giúp việc. Đi
làm thì có Laptop, cell phone. Đi ăn thì có khách hàng trả tiền. Cuối năm thì
gia đình đi du lịch nước ngoài, chi phí có công ty lo. Khách hàng thì rất
nhiều. Tết nhứt cũng có quà cáp, nhậu nhẹt. Phải từ bỏ tất cả thật sự là
một quyết định quá khó khăn. Và còn mộ ba ở đây nữa, ai lo?. Phải, có
rất nhiều lý do để ở lại, không đi.
Đã nhiều lần đừng trước bàn thờ ba, mong ba một lới khuyên. Đi hay ở. Quá khó.
Cuối cùng tôi chọn giải pháp ra đi. Không phải vì vợ chồng riêng tôi mà vì gia đình, vì mẹ , vì các em, vì tương lai các con của tôi và vì lời hứa với ba, "mãi mãi thay ba vì cái gia đình này". Tôi biết những ngày sắp đến tôi sẽ phải bắt đầu trở lại một cuộc phiêu lưu mới. Sẽ không dễ dàng với một người quá tuổi như tôi trên một đất nước hoàn toàn lạ lẫm và quá xa xôi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ hối hận về quyết định của mình. Cũng còn một lý do thật sâu kín không ai biết ngoại trừ vợ tôi: "Vết thương mất cha ngày nào trong trại học tập mãi mãi không lành".
Mỗi lần nhìn những tay công an,
những cán bộ cộng sản, tôi lại nhớ đến khuôn mặt gày gò, cặp mắt đau thương
tuyệt vọng của ba lần gặp mặt trên đường đến trại K2 mười mấy năm về
trước. Muốn quên nhưng khó thể quên được. Muốn tha thứ nhưng không thể nào tha
thứ được. Vẫn mãi mãi một mối căm thù. Vợ tôi hiểu điều đó, chấp nhận cùng
chồng đối diện một cuộc thử thách mới trên đất khách quê người,
bỏ lại bên kia bờ đại dương một mẹ già và một người em gái yêu quý. Tôi
biết tôi đã nợ em, một mối ân tình thật sâu đậm.
Những ngày cuối năm 1998, máy bay chở gia đình chúng tôi đáp xuống phi trường Los Angeles, California Hoa Kỳ. Kết thúc quảng đời 23 năm sống dưới chế độ cộng sản và để bắt đầu một cuộc hành trình không biết sẽ ra sao nhưng tôi tin, chắc chắn sẽ tốt đẹp và bình an hơn. Và, dù ở cách xa ngàn dặm, ba vẫn sẽ luôn theo dỏi, phù hộ mẹ và 9 anh em chúng tôi. Ba ơi, nếu có một kiếp sau, chúng con vẫn sẽ là những đứa con ngoan của ba: Người tù học tập cải tạo chết ở miền đất tận cùng biên giới Việt Trung năm 1978. Hưởng dương 54 tuổi.