STENDHAL ET
MES SAISONS EN ENFER COMMUNISTE
lê khánh
thọ
(nhà văn, họa sĩ, Châteauroux, Pháp quốc)
Hè
1991, sáu năm sau ngày đến Mỹ, cựu đại úy Nguyễn Kim Quý, cựu tù nhân cải
tạo, cựu thuyền nhân, tiến sĩ và giáo sư Pháp văn và Latin tại Đại Học
Eastern Washington University và University of Oregon, đã được Phù Luân
Hội (Rotary Club) Antony, mời đến Paris thuyết trình về đề tài Việt Nam
sau 1975. Ông đã chọn nói về những năm ông bị giam trong các trại cải tạo
Việt Cộng. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện bằng tiếng Pháp trong đó
ông mô tả các trại tù và sự độc ác của Việt Cộng và cho biết nhờ ơn Thượng
Đế và tiểu thuyết của Stendhal ông đã được sống còn như thế nào, sau tám
năm đày ải.
Bài thuyết trình của Tiến sĩ Nguyễn Kim Quý (tựa đề lấy theo từ một bài
thơ nổi tiếng của thi sĩ Rimbaud, “Une saison en enfer”) là một phối hợp
độc đáo, lý thú, giữa văn chương huyễn mộng qua Stendhal và thực tế ghê
tởm qua những tù ngục Việt Cộng.
Stendhal, tên thật Henri Beyle, là văn sĩ Pháp, thế kỷ XIX, tác giả
những tiểu thuyết nổi tiếng, Le Rouge et le Noir, La Chartreuse de
Parme... mà những nữ nhân vật đều tuyệt đẹp, và những nam nhân vật đều bị
vào tù, thực tế hoặc theo nghĩa bóng. Thế giới trong tiểu thuyết của
Stendhal, kể cả những truyện về tù ngục, vì thế, ngạt ngào phấn hương nhờ
tình yêu, hạnh phúc và hình bóng mỹ nhân. Lúc Stendhal còn sống, không ai
đọc sách của ông. Mãi 50 năm sau khi chết, ông mới được nổi tiếng và trở
thành một hiện tượng trong văn học sử Pháp. Hiện tại, ông là một trong
những văn sĩ hiếm hoi được nghiên cứu, phê bình, ái mộ nhiều nhất. Có cả
một Hội gọi là Stendhal Club, tại Paris và Grenoble.
Ngoài ra, luận án tiến sĩ (1990) của giáo sư Nguyễn Kim Quý có tựa
đề: “La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal” (Tù ngục trong tiểu
thuyết của Stendhal). Tháng 3, 1992, cùng với một số giáo sư đại học trên
thế giới, ông được mời thuyết trình về Stendhal nhân ngày mất lần thứ 150
của văn sĩ được tổ chức tại Paris, dưới sự chủ tọa của Tổng thống Pháp
François Mitterrand. Bài của các thuyết trình viên đều được in thành sách
bán tại Paris.
STENDHAL VÀ NHỮNG MÙA CỦA TÔI DƯỚI HỎA NGỤC CỘNG SẢN
lê khánh
thọ dịch
1.
Tôi không bao giờ biết tại sao tôi yêu thích Stendhal và tiểu thuyết của
ông nhiều đến thế. Và điều đó, ngay từ thời trung học khi mà tôi thích thú
đọc đi đọc lại những trang đầy hương của Đỏ và Đen và Tu Viện
thành Parme, mặc dù cha tôi, một giáo dân Công giáo mộ đạo gần như cực
đoan, rất ghét. Về chuyện này, tôi sực nhớ câu mà ông Victor del Litto,
Hội trưởng Stendhal Club, đã bất thình lình hỏi tôi nhân dịp tôi đến
Grenoble lần chót, cách đây bốn năm: “Tại sao anh thích Stendhal?” Tôi bối
rối, không biết trả lời sao. Trong những lần phỏng vấn xin dạy học ở Mỹ,
tôi cũng nghe lặp lại câu hỏi tương tự. Nói thực, tôi thú nhận hoàn toàn
không biết những lý do nào khiến tôi ái mộ văn sĩ ngoại biên lỗi lạc này
–nhưng được ít người biết, và có lẽ ít người thích trong đám độc giả cùng
thời với ông.
Quả vậy, đối
với tôi, yêu thích Stendhal cũng giống như yêu một người đàn bà, hay một
người đàn ông. Yêu hay không yêu, thế thôi. Nhất là với Stendhal, khởi đầu
như một tiếng sét ái tình rất êm ái. Sự kết tinh, để dùng chữ của
ông trong De l’amour, chỉ đến chậm và rất lâu sau đó. Và một tiếng
sét ái tình, “nạn nhân” nào cũng biết, là không cắt nghĩa được.
Năm tháng
trôi qua. Và bây giờ tôi lại ngồi trước tờ giấy trắng tìm lại một câu cắt
nghĩa mới có thể –hoặc đúng hơn không có thể. Tôi yêu thích Stendhal, có
lẽ bởi những tiểu thuyết của ông, và trong tiểu thuyết của ông, bởi các
nhân vật nữ bất tử, tuyệt đẹp, dịu dàng quá đỗi, đã mê hoặc không chỉ
những nam nhân vật, tình nhân của các nàng, và những độc giả như tôi có
tâm hồn đa cảm, mà còn những phê bình gia hiện đại nghiêm khắc nhất nữa
trong số có Paul Valéry, Jean-Paul Sartre và Julien Gracq chẳng hạn, giữa
nhiều người khác.
Tôi yêu, hơn
nữa, trong tác phẩm của Stendhal, mùi hương thần tiên, ngất ngây, trường
cửu như trong Proust, không gian diễm ảo, phi thời gian, cấu thành bởi
thực và hư trộn lẫn, biến hình, đã vỗ về lòng tôi trước bao nhiêu “sự
thật chát đắng”, như chính Stendhal đã viết, của cuộc đời, và làm tôi mơ
đến những khoảng trời xanh hơn, những âm thanh tinh tuyền hơn cho những ca
khúc vĩnh cửu tôi dâng cho ái tình và nhan sắc.
2.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, lúc ấy là sĩ quan của quân lực Miền Nam,
tôi luôn mang theo trong túi quần áo trận tuyệt phẩm trữ tình Truyện
Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du chúng tôi, tập thơ Les Fleurs du
Mal của Baudelaire và một quyển tiểu thuyết của Stendhal mà tôi đọc
giữa hai trận đánh, dưới giao thông hào, trong trại binh hay quán rượu...
Nguyễn Du, Baudelaire, và nhất là Stendhal, như thế ấy, đã giúp tôi thoát
khỏi cái thực tế trĩu nặng mà, theo Nerval nói, “không luôn luôn là em gái
của mộng mơ”. Tôi thường để hồn ru theo nỗi êm đềm của một cuộc đời tưởng
tượng trong tất cả vẻ rạng ngời của nó, tràn ngập những mây hồng, những
tình yêu thắm xanh, những nụ hôn vô tận, một cuộc đời không có tên ở trần
gian này. Cái chết rình rập chúng tôi mỗi giờ, nhưng văn xuôi Stendhal,
còn hơn là rượu và mỹ nhân, hay ma túy trong thơ Baudelaire, đã cho tôi sự
can đảm phi thường để đương đầu với nó, trực diện: tôi đã quên nó, chưa
đủ, tôi đã khinh bỉ nó, một cách rõ ràng, dứt khoát. Như những nhân vật
của Stendhal: Julien, Fabrice, Octave, Lucien v.v...
Giai đoạn hậu
chiến sắp cho quý vị thấy tiểu thuyết, và đặc biệt của Stendhal, đã làm
tôi mê đắm một cách vừa chuyên chế vừa lợi ích như thế nào.
3.
Chúng ta đang ở
vào năm 1975. Nền hòa bình nhục nhã, áp đặt bởi những siêu cường lực trên
đất nước chúng tôi ngày 30 tháng 4, chấm dứt một cuộc chiến cũng không kém
nhục nhã và khai tử quốc gia VNCH từ nay bị trao vào tay bọn bạo tàn Miền
Bắc, kẻ chiên thắng không ngờ. Ngày đó, bỗng nhiên tôi trở thành “tù binh”
và “kẻ thù của nhân dân” mà không biết chính xác tại sao. Chế độ mới, tự
gọi là “cách mạng”, đỏ từ đầu đến chân, nhanh chóng tự gắn cho mình một
nhiệm vụ “vĩ đại”: lùa tất cả sĩ quan và cán bộ Miền Nam vào tù. Tại đó
bắt đầu mọi bất hạnh của chúng tôi. Nhưng rồi, lòng tin vào Thượng Đế bỗng
nhiên thức dậy trong tôi và sự mê say không phai nhạt đối với Stendhal và
những tiểu thuyết của ông thực sự đã cứu vớt tôi, không chỉ thoát khỏi
những xấu xí của đời sống mà còn sự tàn nhẫn của cái chết –cái chết mà bây
giờ tỏ ra ngàn lần đe dọa hơn trong lúc chiến tranh. Như thế, nhờ ơn Chúa
và nhờ Stendhal, tôi đã có thể sống sót sau tám năm giam hãm, đói khát,
đau khổ, thiếu thốn, trong những trại tù khác nhau và cuộc đọa đày khủng
khiếp xuống dưới hỏa ngục.
Hỏa ngục Cộng
sản, dĩ nhiên. Nhưng không có ngôn ngữ nào có thể mô tả đủ sự tàn ác của
một trại tù do bọn Cộng sản Việt Nam –tức là Việt Cộng– thiết lập. Đó là
bọn cai ngục bẩm sinh, quý vị hãy tin tôi đi, phô diễn một khả năng và
kinh nghiệm canh phòng vô địch. Không một nơi giam giữ nào, hư cấu hay có
thực, mà tôi được biết, kể cả Quần đảo Goulag của Soljenitsyne, hay
Hồi ức về căn nhà tử tội của Dostoïevski, có thể so bằng những trại
Việt Nam trong cái mà tôi gọi là “độc ác tinh vi”: ở đây người ta giết tù
nhân một cách khoa học, tiệm tiến, nhẹ nhàng một cách khủng khiếp, bằng
cái đói triền miên. Để chế ngự chúng tôi hiệu quả hơn, bọn khốn nạn đã
khai thác khéo léo cái bản năng thấp nhất, tệ nhất của con người: nhu cầu
ăn. Ít ra trong tù, những nhân vật của Stendhal có thể ăn và uống đầy đủ:
Fabrice lại còn có sô-cô-la của Clélia và Julien có sâm banh và xì-gà của
Mathilde gửi cho. Còn chúng tôi, còn tôi, mỗi ngày, bắt buộc phải tự nhìn
thấy mình chết lần chết mòn như con vật bị vây hãm, sống một cái chết hoàn
toàn đúng nghĩa tồi tệ, nhục nhã, hèn hạ, cố tình bày ra bởi lũ Cộng sản
–đồng hương của chúng tôi. Một cái chết đến chậm, kéo dài, kéo dài, với
trong hồn mỗi người tù sự phẫn nộ bất lực, sự xấu hổ bị dồn vào thế buộc
phải thường trực, mỗi ngày, nghĩ đến cái dạ dày trống không và cách nào để
làm đầy nó.
Bọn họ đã ra
lệnh cho các sĩ quan phải trình diện những “ủy ban cách mạng nhân dân”,
chuẩn bị một khóa học cải tạo mà theo thông cáo chính thức với lối hành
văn mơ hồ và bịp bợm sẽ kéo dài chỉ mười ngày hoặc một tháng tùy theo cấp
bậc. Lúc ấy vào tháng sáu 1975. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng đối với tất
cả đó sẽ là một “cuộc hành trình cuối đêm” xứng đáng với Céline, kéo dài
từ tám, mười, cho tới mười bốn năm, và đối với nhiều người, một vé đi
không về, một lần vĩnh biệt cuộc đời và thế gian, trong hai nghĩa đen và
bóng. Đầu tiên chúng tôi bị giam giữ trong những trại ở Miền Nam. Rồi một
ngày đẹp trời, bọn họ quyết định chuyển ra Miến Bắc khoảng một trăm ngàn
“phần tử” bị xét là “phản động” nhất, nghĩa là nguy hiểm nhất, trong đó có
Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Thuận và một số tướng lãnh. Trên biển.
Trong vài chiếc tàu chở than cũ kỹ tịch thu của “ngụy quyền”. Chúng tôi bị
còng tay, bị nhốt hàng ngàn người trong các hầm tàu, và như thể súc vật.
Chuyến đi kéo dài ba ngày. Ba thế kỷ. Không khí thiếu. Nước cũng thiếu.
Thức ăn cho cả ngày là một ảo tưởng: mỗi tù nhân được phát hai phong bánh
bích qui mốc của lính made in China, lớn bằng hai hộp diêm,
chỉ vừa đủ để khỏi chết đói. Phía trên, không có gì ngoài một vòm tối đen.
Chung quanh, những thân xác bất động chất đống cạ vào nhau và mình mẩy
dính đầy bụi than. Cái nóng kinh hồn hành hạ tù nhân. Ngay những giờ đầu,
bốc lên một mùi hôi thối, làm ngộp thở, đầu độc căn hầm đầy người. Khắp
nơi, im lặng như chết.
Từ cảng Hải
Phòng, nơi mà cuối cùng chúng tôi được cập xuống, đến những trại tập trung
khác nhau, còn một chuyền đi nữa không kém kinh hoàng, kéo dài khoảng hai
hoặc ba ngày, bằng tàu lửa hay xe cam nhông. Vì biện pháp an ninh, cửa lớn
và cửa sổ xe lửa phải đóng kín mít, dưới cái nắng nung người. Trong những
hỏa lò lưu động ấy, sự ngộp thở kinh khủng đến nỗi một số tù nhân già yếu
và kiệt lực sau chuyến vượt biển đã chết trước khi đến nơi chỉ định.
Những trại tù
ở Miền Bắc, tôi nghĩ khoảng ba mươi, dành cho chúng tôi, đều nằm trong
vùng núi –nơi sinh sống của những sắc dân thiểu số lạc hậu nhất hay gia
đình của những người bị đi đày biệt xứ vì lý do chính trị từ thời Pháp
thuộc và sau Điện Biên Phủ– gần biên giới Tàu và Lào, ở đó những con muỗi
to bằng những con ruồi hoặc gần như thế. Trên đường, những trẻ em và bà
già, bị thúc đẩy bởi mối hận thù từ lâu nuôi dưỡng và luôn kích thích do
sự tuyên truyền thô bỉ, đã ném thẳng tay vào chúng tôi đất đá, đồ dơ và
hét lên những tràng chửi bới thậm tệ. Cũng như các bạn đồng cảnh khổ, tôi
cố gắng nuốt những giọt nước mắt. Tủi nhục, đắng cay, uất giận.
Cuộc sống tại
các trại Miền Bắc còn hơn là hỏa ngục. Không cách nào đào thoát được.
Chúng tôi bị bao vây một cách tuyệt vọng bởi những rặng núi trùng điệp làm
thành những tường lũy thiên nhiên kiên cố. Nhưng rồi, ngay cả nếu thoát
được, làm sao, ở trên núi, có thể sống sót với cái lạnh, đói khát và sức
kiệt? Chúng tôi bị giam trong những túp nhà cũ thấp mái rạ, nằm ngủ trên
một thứ giường tập thể làm bằng những tấm gỗ thô, không chiếu, không gối,
không đệm, để rồi sáng mai thức dậy mặt mày, mình mẩy rải đầy những vết
rệp và muỗi cắn. Ngoài ra, cái lạnh tột độ, làm buốt xương. Về quần áo,
người ta chỉ phát cho chúng tôi một bộ đồng phục màu xanh da trời bằng vải
thô dùng trong kỳ hạn hai năm và một tấm chăn cũ nát nhỏ xíu bằng len xấu.
Không săng đan, không tất vớ, không mũ nón. Những thứ này, chúng tôi phải
tự xoay xở lấy, người ta bảo chúng tôi, hoặc là mặc kệ! Vào mùa đông hay
mùa mưa, không tài nào ngủ được, vì cái lạnh và ẩm ướt khắc nghiệt, không
thể chịu nổi nữa và chúng tôi bị cấm đốt lửa trong nhà.
Tuy nhiên,
tất cả những thứ ấy không là gì so với cái đói, cực hình tồi tệ nhất. Phần
ăn hằng ngày của chúng tôi, quả vậy, là một chén sắn (khoai mì) cho một
trong hai bữa. Không có ăn sáng. Không cơm. Không sữa không đường. Không
thịt không rau. Khoai mì mà người ta cho chúng tôi đã được phơi khô và,
như thế, được dành những khi mất mùa cho heo –mà heo, tôi đoán, cũng từ
chối không ăn. Vì nó có màu đen đen, vị chua chua, mùi thum thủm. Nhưng
cái đói chiến thắng mọi ghê tởm và chọn lựa. Với món ăn kinh khiếp
này, những anh chàng dù to con nhất, sau vài tháng, có màu da xanh mét, vẻ
hốc hác, mặt teo lại. Sau một năm, trở thành những bộ xương biết đi. Óc
đặc lại, người ta không thể suy nghĩ hay phản ứng gì nữa. Quên đi phẩm
cách, một số người chỉ còn nghĩ đến cái ăn, và đó cũng tự nhiên thôi. Tệ
hơn, người ta đánh mất ý chí chống đối, phản kháng, tự trọng, và tất cả
điều đó hoàn toàn phù hợp với kế hoạch dự trù của Việt Cộng. Sự thiếu dinh
dưỡng và thiếu thuốc men sinh ra nhiều căn bệnh hiểm nghèo, không tránh
khỏi, ví dụ bệnh thiếu sinh tố và phù thũng –mỗi ngày, cùng với bệnh sốt
rét, chóng vánh đua về bên kia thế giới, một cách nhẹ nhàng, một hay hai
tù nhân khốn khổ.
Những người
còn sống sót cứ tiếp tục nhai sắn khô bằng thích, tiếp tục đói, tiếp tục
đau, và nhất là tiếp tục lao động khổ sai. Cai tù không ngớt lặp đi lặp
lại rằng lao động là nguồn gốc mọi vinh quang, rằng khởi thủy, con người
đầu tiên, nghĩa là ông tổ của chúng ta, là một con khỉ, rằng con khỉ ấy vì
phải trèo lên cây hái trái, xuống ruộng trồng lúa, vào rừng săn thỏ, vắn
tắt, lao động vất vả, đã dần dần mất bộ lông dài để trở thành đẹp đẽ, trơn
tru như chúng ta hôm nay. Vì thế, người ta hét vào tai chúng tôi, hãy tống
cổ những kẻ chây lười lao động, ăn bám, mình còn đầy lông lá, ra khỏi
thiên đàng Cộng sản!
Về lao động
hằng ngày, chúng tôi được chia thành nhiều đội và tổ, và phải ra hiện
trường làm việc tám tiếng mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần, ngày Chúa Nhật
dành cho học tập chính trị và những công việc vặt vãnh khác nhau. Chúng
tôi làm tất cả mọi thứ, thay đổi việc làm, tổ đội, đồng đội cứ mỗi sáu
tháng, đại khái: trồng rau cải, xà-lách, lúa, bắp –những sản phẩm mà
chúng tôi không được quyền ăn. Hoặc sáng sớm vào rừng chặt gỗ, đốn tre.
Xây hay sửa nhà, cầu, đường với dụng cụ thô sơ từ thời Thượng cổ. Hoặc
thay bò kéo cày trong ruộng, giữ trâu, nuôi heo, còn gì nữa? Nói ngắn gọn,
làm tất cả những công việc đối với chúng tôi –đại úy, đại tá, và tướng
lãnh– cho đến lúc ấy hoàn toàn xa lạ, chưa hề biết, kỳ quặc, vì thế rất
mệt. Thêm vào đó là cái đói, cái lạnh, sự tàn tạ thể xác và suy nhược tinh
thần, và quý vị hiểu tại sao mức độ tử vong trong các trại tù lên cao như
vậy.
Nhất là sự
suy nhược tinh thần. Nó giết người cũng tàn nhẫn như cái đói và bệnh hoạn.
Trong cảnh khổ, người ta không thể bỏ qua sức mạnh của tinh thần và chịu
đựng của tâm hồn. Không có sự can thiệp cứu rỗi của tinh thần, án tử hình
sẽ không được bãi bỏ, không hoãn lại. Có nhiều người trải qua suốt tháng,
kể cả suốt năm, ngồi than vãn số phận, tiếc hão một hạnh phúc, một vinh
quang, hay một tình yêu vĩnh viễn bay mất, hay bám víu một cách tuyệt vọng
vào thực tại ghê tởm. Những người ấy, cái chết không bao giờ bắt hụt.
Nhưng đó cũng
chính là điều tôi đã làm thời gian đầu. Tôi cũng đã khóc như mọi người
trong đêm Giáng sinh đầu tiên tại trại. Và như mọi người, tôi thấy đói
kinh khủng, không cử động nổi, thường té vì mệt. Sức mạnh thể xác và tinh
thần suy sụp chầm chậm, nhưng chắc chắn. Rồi một ngày, được nhìn thấy, bất
lực, một người bạn thân thiết chết trong hoàn cảnh hãi hùng và bất xứng
của một con vật người ta đem đi thọc huyết, tôi giật mình sợ hãi. Tôi
không muốn chết như vậy, tôi lặp lại cho chính mình trong cơn giận dữ đè
nén. Chuyện kể trong Terre des hommes của Saint-Exupéry về chàng
Guillaumet mệt nhoài, nhưng cứ lầm lũi bước đi trong tuyết ngày này qua
ngày khác, để khỏi gục ngã, bỗng trở về trong ký ức, rất đúng lúc. Và rồi,
phục hồi sinh khí tôi không biết nhờ sức mạnh thần linh nào, tôi bắt đầu
buông lại lời thách đố năm xưa cho cái chết hỗn láo, cái chết xanh xao
trong một bài thơ của Horace, cái chết mà tôi đã vất vả vật lộn với, từ
thời chiến tranh, nhưng nó không bao giờ chụp bắt được tôi, nhờ ơn Chúa.
Nhất là, tôi la lớn, không bao giờ bỏ cuộc.
Bấy giờ, tôi
bắt đầu cầu nguyện trở lại, ban đêm, và đọc lại với sự say mê của một
người tình cũ những tiểu thuyết Stendhal, nhưng bằng trí nhớ, dĩ nhiên. Từ
đó, tôi sống một thực tế khác, tự xem mình đã chết đối với cuộc đời, như
Octave trong Armance. Tôi quên, cố gắng quên, bọn cai ngục và trại
tù, đói và bệnh, quần áo tả tơi và thân xác khô héo –tất cả những điều
nhắc tôi không ngừng vẻ xấu xí của địa ngục. Tôi chiến thắng nỗi bất hạnh
của tôi bằng cách thôi tưởng nhớ những người đàn bà đẹp mà tôi đã quen
biết và có khi yêu thương trong cuộc đời và bây giờ đã trở thành một thực
tế còn khó với nắm, còn xa xôi hơn cả chính mộng mơ. Trái lại, tôi chỉ
nghĩ đến những nữ nhân vật của Stendhal –Mathilde, Mme de Rênal, Clélia,
la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, giữa những nàng khác– mà hình
bóng trác tuyệt, vĩnh viễn trẻ và đẹp, đã đưa tôi rất nhẹ nhàng ra khỏi
thực tế phũ phàng và tầm thường, cái thực tế mà tôi nghĩ tôi không phải
sinh ra để ôm lấy, ngay cả thời trước khi vào tù. Ngày tháng của tôi trôi
qua như thế, êm đềm, như nước trôi qua cầu, và tôi dám nói thêm, hạnh
phúc, dưới bóng những tình nhân đẹp như hoa, ít nhiều như trong Proust, ít
nhiều lạ thường, nhưng sẽ chung thủy, tôi hy vọng, với tôi cho đến phút
lìa trần –những người yêu dấu duy nhất đã đến thăm tôi trong tù, đem lại
bình an và ánh sáng. Nhờ các nàng và sự hiện diện thường trực, vỗ về, tù
ngục của tôi, tuy không bao giờ có thể trở thành thiên đường như của
Julien Sorel hay Fabrice del Dongo, cũng đã mất đi vẻ thê thảm để cho tôi
kéo lê, trong nghĩa cụ thể, cuộc sống của tôi, hay đúng hơn cái chết của
tôi, một cách xứng đáng nhất, cho đến ngày 18 tháng ba 1983, thời điểm tôi
được thả. Sau tám năm trời!
Sau hơn một
năm thất bại ê chề trong những mưu toan vượt trốn quê hương và nỗi khổ bị
bắt lại –lần này như một thuyền nhân kém may mắn– tôi và cô em gái, một
đêm đen, được lên trên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ một hôm đã thả chúng
tôi xuống căn cứ hải quân Subic Bay của Mỹ tại Manila sau tám ngày, tám
đêm trôi dạt trên Thái Bình Dương, giữa cơn bão lớn. Nhưng đó là chuyện
khác. Tôi trải qua một năm rưỡi tại hai trại tỵ nạn ở Philippines trước
khi đến Mỹ định cư ngày 25 tháng giêng 1985. Tôi hứa với lòng một ngày nào
sẽ đến viếng Đúc Mẹ Lộ Đức và viết điều gì đó về Stendhal. Trong năm năm,
tôi đã thực hiện hai lời hứa ấy. Luận án tiến sĩ của tôi –được chấp nhận
với lời khen của các giáo sư trường Đại Học Oregon, và được ông del Litto
nhận in trong thư mục Stendhal qua nhà xuất bản Droz, Genève– có chính cái
tựa đề Tù ngục trong tiểu thuyết Stendhal. Tôi không bao giờ có thể
cảm tạ đủ Thượng Đế đã cứu vớt tôi như thế bằng cách cho tôi một tâm hồn
rất lãng mạn, rất mơ mộng và cho tôi niềm si mê về văn chương và, mâu
thuẫn thay, về Stendhal, người ta còn nhớ, không luôn luôn dễ thương đối
với Ngài.
4.
Tôi đã quá tuổi
tiếc thương hư ảo rồi, nhưng mỗi tiểu thuyết của Stendhal rực rỡ trong tôi
như ánh sáng thiên đường tìm thấy lại. Một mảnh đời tan vỡ. Tôi không thể
sống mà không mộng mơ. Cũng giống như những ngày trước, trong địa ngục
Cộng sản. Thật là chán nản vô cùng khi phải luôn bám vào thực tế, khi mỗi
ngày không đọc một trong những trang sách Stendhal đầy ắp yêu thương, mừng
vui, và mùi hương phấn. Dầu sao, để bắt chước Pascal trong cuộc cá độ
nổi tiếng của ông, quý vị sẽ mất gì khi đọc một tiểu thuyết của Stendhal?
Không mất gì hết. Nhưng nếu thắng, quý vị sẽ được cả một trời mơ, trước
mặt, cùng với, và chung quanh quý vị. Và để kết thúc, tôi mạn phép được
trích những dòng cuối từ quyển sách của tôi về tù ngục trong Stendhal mà
từ nay “là một cõi niết bàn, thực ra, không tưởng (có tù nhân nào hưởng
được số phận của Julien và Fabrice?), nhưng vô cùng quý hóa cho tất cả
chúng ta bị ném vào cuộc khiêu vũ giả trang được gọi là đời sống, ở thế
giới của giờ thứ hai mươi lăm này trong đó con người, sau những chấn song
và kém may mắn hơn những nhân vật Stendhal, phải luôn đi tìm kiếm, như
Henri Beyle trong suốt cả đời, một hạnh phúc hão huyền, một dòng sông
Léthé không còn chảy nữa, một giọt lệ không bao giờ được khóc.”
STENDHAL ET MES
SAISONS EN ENFER COMMUNISTE
nguyên văn bài
thuyết trình của GS Nguyễn Kim Quý
Mesdames et
Messieurs,
1.
Je ne sais jamais pourquoi j’ai tant aimé Stendhal et ses romans. Et ça
depuis le lycée où je me plaisais à lire et relire les pages odoriférantes
du Rouge et le Noir, de La Chartreuse de Parme,
malgré l’aversion de mon père, catholique fervent, voire extrémiste. A
propos, je me souviens de cette question que me posa à brûle-pourpoint M.
Victor del Litto, président du Stendhal Club, lors de mon dernier séjour à
Grenoble, voilà quatre ans: “Pourquoi aimez-vous Stendhal?” Je demeurai
perplexe, ne sachant que répondre. Au cours des interviews pour mon poste
de professeur, aux États-Unis, j’entendais se reposer la même question. A
vrai dire, j’avoue que j’ignorais tout à fait les raisons de ma
prédilection pour cet écrivain marginal, génial –pourtant très mal connu,
et peut-être, très mal aimé des lecteurs de son époque. Pour moi, en
effet, aimer Stendhal, c’est comme aimer une femme, ou un homme. On aime,
ou on n’aime pas, c’est tout. Surtout avec lui, il y eut au début une
sorte de coup de foudre très doux. La cristallisation, pour
reprendre son propre mot dans De l’amour, ne vient que lentement et
très longtemps après. Et un coup de foudre, aucune “victime” ne l’ignore,
ça ne s’explique pas.
Des années
ont passé. Et me voici, pourtant, devant la page blanche à la recherche
d’une nouvelle explication possible –ou plutôt impossible. J’aime
Stendhal, peut-être à cause de ses romans, et dans ses romans, à cause de
ses héroïnes immortelles, si belles, si tendres, qui ont exercé une
séduction irrésistible non seulement sur les héros, leurs amants, et les
lecteurs comme moi à l’âme sensible, mais encore sur les critiques
contemporains les plus sévères dont Paul Valéry, Jean-Paul Sartre et
Julien Gracq, par exemple, entre beaucoup d’autres. J’aime, en plus, dans
ses œuvres ce parfum féerique si enivrant, impérissable comme chez
Proust, cette atmosphère si enchanteresse, a-temporelle, faite de fiction
et de réel entremêlés, transfigurés –qui me consolent de bien des “âpres
vérités”, selon le mot de Stendhal lui-même, de la vie, et me font rêver
des cieux plus bleus, des sons plus purs pour mes éternels hymnes à
l’amour et à la beauté.

2.
Pendant la guerre
du Viêtnam, comme officier des Forces Armées du Sud, j’avais toujours
dans les poches de mon treillis le chef-d’œuvre lyrique Truyen Kieu
de notre grand poète national Nguyen Du, Les Fleurs du Mal de
Baudelaire et un roman de Stendhal que je lisais entre deux batailles,
dans les tranchées, aux casernes ou aux snacks... Nguyen Du, Baudelaire et
surtout Stendhal m’aidaient ainsi à m’évader hors de la lourde réalité
qui, comme dit Nerval, n’est pas toujours la sœur du rêve. Je me
laissais souvent charmer par les douceurs d’une vie imaginée dans toute sa
splendeur et remplie de nuages roses, d’amours vertes, de baisers infinis,
d’une vie qui n’a pas de nom ici-bas. La mort nous guettait à chaque
instant, mais la prose de Stendhal, mieux que le vin et la femme, ou le
haschisch dans la poésie baudelairienne, me donnait le courage inoui de la
défier, bien en face: je l’oubliais, c’est peu dire, je la dédaignais
carrément. Tout comme les héros stendhaliens, Julien, Fabrice, Octave,
Lucien, etc...
L’épisode de
l’après-guerre va mieux montrer comment les romans, et spécialement ceux
de Stendhal, m’ont tenu sous leur charme à la fois tyrannique et
bénéfique.
3.
Nous
sommes en 1975. La paix honteuse, imposée par les super-puissances
internationales à notre pauvre pays le 30 Avril, met fin à une guerre non
moins honteuse et sonne le glas pour le Sud du Viêtnam désormais livré aux
mains des bourreaux du Nord, vainqueurs malgré eux. Ce jour-là, je devins
tout d’un coup “prisonnier de guerre” et “ennemi du peuple”, sans savoir
exactement pourquoi. Le nouveau régime, qui se fit appeler
“révolutionnaire”, rouge jusqu’au bout des ongles, s’est vite donné une
“grandiose” tâche: envoyer en prison tous les officiers et cadres
Sudistes. Là commencèrent tous nos malheurs. Mais ma foi soudain réveillée
en Dieu et mon inaltérable passion pour Stendhal et ses romans me
sauvèrent non plus seulement des laideurs de la vie, mais encore des
brutalités de la mort qui se révéla maintenant mille fois plus menaçante,
plus moche qu’en temps de guerre. Grâce à Dieu et à Stendhal donc, je pus
survivre à mes huit ans d’incarcération, de faim, de souffrances, de
privations, dans de multiples camps de labeur, et à mon horrible descente
en enfer.
Enfer
communiste, bien sûr. Mais aucun langage ne peut assez décrire les
atrocités d’une prison tenue par les Viêtnamiens Communistes –alias Viet
Cong. Ce sont des geôliers nés, croyez-moi, faisant preuve d’une vigilance
et d’une expérience hors de pair. Aucun lieu de détention, fictif ou réel,
que je sache, pas même L’Archipel du Goulag de Soljenitsyne ou
Souvenirs de la maison des morts de Dostoïevski, n’arrive à égaler les
camps Viêtnamiens en ce que j’appelle “raffinement de cruauté”: ici, on
tue d’une manière scientifique, progressive, affreusement douce, par
l’obligation à une faim permanente. Pour mieux nous maîtriser, ces salauds
exploitaient habilement l’instinct le plus bas, le plus dégradant de
l’homme: besoin de manger. Au moins, dans leurs prisons, les héros
stendhaliens peuvent manger et boire à loisir: en plus, Fabrice a le
chocolat de Clélia, et Julien, le champagne et les cigares envoyés par
Mathilde. Quant à nous, quant à moi, chaque jour, nous étions forcés de
nous voir mourir lentement en bêtes traquées, de vivre pratiquement une
mort ignoble, humiliante, avilissante, inventée exprès par les Viet Cong
–nos compatriotes. Une mort à retardement qui traînait, traînait, avec
dans l’âme de chaque prisonnier la rage impuissante, la honte d’en être
réduit à songer constamment, chaque jour, à l’estomac creux et au moyen de
le remplir.
On avait
ordonné aux officiers de se présenter aux “comités révolutionnaires du
peuple”, faire les préparatifs d’un stage de rééducation qui, d’après le
communiqué officiel utilisant une phraséologie vague et trompeuse, ne
devrait durer que dix ou trente jours, selon les grades. C’était en Juin
1975. Nul ne s’est jamais douté, cependant, que ce serait pour tous un
long voyage au bout de la nuit digne de Céline, qui durait huit, ou
dix, ou même quatorze ans, et pour plusieurs un aller simple, un adieu à
la vie et au monde, littéralement. D’abord nous avions été détenus dans
les camps du Sud. Puis, un beau jour, on décida de transférer au Nord
environ cent mille “éléments” jugés les plus “réactionnaires”,
c’est-à-dire les plus dangereux, dont l’archevêque de Saigon Nguyen Van
Thuan et un bon nombre de généraux. Sur mer. Dans quelques vieux
charbonniers confisqués au “gouvernement fantoche”. On nous passe les
menottes, on nous enferme par milliers dans les cales, on nous réduit
ainsi à l’état de bétail. La traversée dure trois jours. Trois siècles.
L’air nous manque. L’eau aussi. La nourriture est une chimère: pour toute
la journée, chaque détenu reçoit deux biscuits moisis, sorte de ration
militaire made in China, grands comme deux boîtes d’allumettes,
juste assez pour ne pas crever. Au-dessus, rien qu’un plafond noir.
Autour, des corps inertes empilés les uns contre les autres et tout
couverts de résidus de charbon. La canicule exerce son pouvoir néfaste.
Dès les premières heures, une exhalaison méphitique et asphyxiante
empoisonne les cales bondées. Partout, un silence de mort.
Du port de
Haiphong, où nous débarquâmes enfin, aux différents camps de
concentration, il nous restait à effectuer un autre voyage non moins
affreux, qui durait à peu près deux ou trois jours, par le train et en
camion. Par mesure de sécurité, nous dit-on, les portières et les fenêtres
devaient être complètement fermées, et cela, sous un soleil brûlant. Dans
ces fourneaux roulants, la suffocation était telle que plusieurs
prisonniers, âgés et déjà bien affaiblis par l’épreuve de la mer,
succombèrent avant d’arriver à destination.
Les prisons du
Nord Viêtnam, au nombre d’une trentaine, je crois, à nous destinées,
étaient toutes sises dans des régions montagneuses où vivaient les
peuplades minoritaires les plus arriérées ou les familles des déportés et
exilés politiques depuis l’occupation française et après Dien Bien Phu,
près des frontières chinoise et laotienne et où les moustiques avaient la
grosseur des mouches, ou presque. Sur le chemin, des gamins et des
vieilles femmes, pressés par la haine contre nous longtemps nourrie et
sans cesse attisée par une grossière propagande, nous lancèrent à pleine
main des cailloux, des ordures et hurlèrent des bordées d’injures.
J’essayai, comme mes confrères dans le malheur, d’avaler mes larmes. De
honte, d’amertume, de fureur.
La vie dans
les camps nordistes était plus qu’infernale. Aucune possibilité d’évasion.
Nous étions désespérément encerclés par d’interminables chaînes de
montagne formant des murailles naturelles solides. Et puis, même si on
réussissait à les atteindre, comment survivre, là-haut, au froid, à la
faim, à la soif, à l’épuisement physique? Nous étions casés dans de
vieilles baraques basses en toit de chaume, couchions sur une espèce de
lit collectif fait de rugueuses planchettes de bois, sans nattes, sans
oreillers, sans paillassons, pour nous réveiller au matin, le visage et le
corps criblés de piqûres de punaises et de moustiques. Par ailleurs, le
froid était à son comble. Pour tout habillement, on nous donnait à chacun
un uniforme bleu en tissu grossier à utiliser pour deux ans, et une
minuscule couverture râpée de mauvaise laine. Pas de sandales, ni
chausettes, ni chapeaux. A nous de nous démerder, nous dit-on, ou tant
pis! En hiver et en saison des pluies, c’était impossible de dormir, tant
le froid et l’humidité devenaient intolérables, impitoyables, et on nous
interdisait de faire du feu dans la baraque.
Tout ça,
cependant, n’était rien à côté de la faim, le pire des tourments. Notre
ration alimentaire, en effet, se limitait à un bol de racine de manioc
pour l’un des deux repas quotidiens. Pas de petit déjeuner. Pas de riz. Ni
lait ni sucre. Ni viande ni légumes. Le manioc qu’on nous donnait avait
été séché au soleil et, ainsi, servait de nourriture en cas de mauvaise
récolte aux cochons qui, je devine, l’auraient même refusé, car il avait
une couleur noirâtre, un goût douteux, sinon aigre, une odeur fétide. Mais
la faim avait raison du dégoût et du choix. Avec cette horrible
boustifaille, les gars, même les plus costauds, au bout de quelques mois,
avaient le teint pâle, l’air hagard, la figure décharnée. Après un an, ça
devenait des squelettes ambulantes. La cervelle devenue pâteuse, on ne
pouvait plus réfléchir, ni réagir. Oubliant leur dignité, plusieurs ne
pensaient plus qu’à la bouffe, et c’était tout à fait normal. Pire, on
perdait ainsi toute velléité de résister, de se révolter, de se respecter,
et tout ça se conformait parfaitement au plan prévu par les geôliers. La
malnutrition et le manque de vitamines et de médicaments engendraient de
nombreuses inévitables maladies graves, l’avitaminose et le béribéri par
exemple, qui, avec le paludisme, ne tardaient pas à envoyer, tout
doucement, chaque jour, dans l’autre monde un ou deux pauvres diables.
Les
survivants, eux, continuaient de plus belle à mâcher du manioc sec, à
avoir faim, à être malades, et surtout à travailler dur. Les gardiens ne
cessaient de répéter que le travail est source de toute gloire, et qu’au
commencement, le premier homme, à savoir notre ancêtre, avait été un
singe, que ce singe à force de grimper sur l’arbre pour cueillir les
fruits, descendre dans le champ pour semer les grains, courir dans la
forêt pour chasser les lièvres, bref, de travailler dur, avait, peu à peu,
perdu ses longs poils pour devenir beau, lisse comme nous le sommes
aujourd’hui. Que les paresseux, les parasites, les gens velus, nous
hurlait-on à l’oreille, soient donc éliminés du paradis communiste!
Pour le labeur
quotidien, nous étions divisés en plusieurs compagnies et sections, et
sortions travailler aux champs huit heures par jour, six jours par
semaine, le dimanche étant réservé à l’éducation politique et aux diverses
menues besognes. Nous faisions tout et devions changer de job, de
compagnie, de compagnons tous les six mois, grosso modo: planter
des choux, des salades, du riz, du maïs –que nous n’avions d’ailleurs pas
le droit de manger. Ou aller de grand matin dans la forêt ou la montagne
couper du bois, du bambou. Construire ou réparer des maisons, des ponts,
des routes avec les outils rudimentaires datant de l’Antiquité. Ou
labourer la terre en tirant la charrue à la place des bœufs, garder les
buffles, élever les porcs, que dirais-je encore ? Bref, faire tout ce qui
pour nous –capitaines, colonels, et généraux– était jusque-là tout à fait
inconnu, étranger, bizarre et partant très épuisant. Ajoutez à cela la
faim, le froid, l’affaiblissement physique et la dépression morale, et
vous comprenez que le taux de mortalité dans les camps soit si élevé.
Surtout la
dépression morale. Elle tue avec la même cruauté que la faim et la
maladie. Dans le malheur, on ne peut pas se passer de la force morale et
de la résistance spirituelle. Sans l’intervention rédemptrice de l’esprit,
la peine de mort est irrévocable et n’admet point de sursis. Or, nombreux
étaient ceux qui passaient des mois, voire des années, à se lamenter sur
leur sort, à nourrir le vain regret d’un bonheur, d’une gloire, ou d’un
amour perdus pour toujours, ou à s’agripper désespérément à la réalité
répugnante. Ceux-là, la mort ne les ratait pas.
Mais voilà
exactement ce que j’avais fait, au début. J’avais pleuré à chaudes larmes
comme tout le monde au premier Noël. Et comme tout le monde, j’avais
horriblement faim, bougeais à peine, tombais souvent de fatigue. La force
du corps et de l’esprit périclitait lentement, mais sûrement. Puis un
jour, en regardant, impuissant, un de mes chers amis mourir dans les
conditions affreuses et indignes d’un animal qu’on allait égorger, je
tressaillis de peur. Je ne veux pas mourir de cette manière, me suis-je
répété avec une colère sourde. Le souvenir de Guillaumet dans Terre des
hommes de Saint-Exupéry, qui, fourbu, s’obstine à marcher dans la
neige pendant des jours, pour éviter de succomber, me revint soudain à
l’esprit, très à propos. Et alors, animé de je ne sais quel souffle divin,
je me mis à relancer le grand défi d’autrefois à l’insolente Mort, cette
pallida Mors dans un poème d’Horace, avec laquelle je m’étais colleté
tant bien que mal, depuis la guerre, et qui m’a toujours loupé, grâce à
Dieu. Surtout, ai-je crié, il ne faut jamais capituler.

Tiến sĩ
Nguyễn Kim Quý đang trình bày bài tại Chi Hội Antony của Rotary Club.
Người thứ hai từ phải là ông Chủ tịch Chi hội cùng bốn vị trong Ban Chấp
Hành. Thành viên cử tọa ngồi phía dưới (không có trong ảnh). Bản đồ Việt
Nam treo trên tường do thuyết trình viên mang đến.
Alors, je
recommençai à réciter mes prières, la nuit, et à relire avec l’ardeur
d’ancien amoureux les romans de Stendhal, mais mentalement, bien sûr. Dès
lors, je vivais une autre réalité, me voyant déjà mort au monde, à
l’instar d’Octave dans Armance. J’oubliais, j’essayais d’oublier,
les geôliers et les camps, la faim et la maladie, mes guenilles et mon
corps désséché –tout ce qui devait me rappeler sans cesse la hideur de
l’enfer. Je triomphais de ma misère en ne pensant plus à ces belles femmes
que j’avais connues ou même aimées dans la vie, et qui sont maintenant
devenues un réel plus inaccessible, plus lointain que le rêve lui-même.
Par contre, je ne songeais qu’à ces héroïnes stendhaliennes –Mathilde, Mme
de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, entre
autres– dont l’image sublime, éternellement jeune et belle, me délivrait
bien doucement de cette réalité cruelle et banale pour laquelle je ne me
croyais jamais être fait, même à l’époque anté-carcérale. Mes journées
coulaient ainsi, tranquilles comme l’eau sous le pont, et même, je dirais
plus, heureuses, à l’ombre des ces amantes en fleurs, plus ou moins
proustiennes, plus ou moins singulières, mais fidèles, j’espérais, jusqu’à
mon dernier souffle –les seules femmes qui fussent jamais venues me
consoler dans mes prisons, me rendre la paix et le soleil. Grâce à elles
et leur présence permanente et réconfortante, ma prison, sans jamais
pouvoir être paradisiaque comme celle de Julien Sorel et de Fabrice del
Dongo, perdit quand même son aspect lugubre pour me permettre de traîner,
au sens propre, ma vie, ou plutôt ma mort, d’une manière aussi digne que
possible, jusqu’au 18 Mars 1983, date de ma délivrance. Huit ans déjà!
Un an plus
tard. Après d’infructueuses tentatives d’évasion hors du pays, d’échecs,
de déboires et un nouvel emprisonnement –cette fois comme un boat-people
malchanceux– j’ai pu, dans une nuit sombre, avec ma jeune sœur,
m’embarquer dans un petit bateau de pêche qui nous a déposés un jour à la
base navale américaine de Subic Bay à Manille après avoir flotté à la
dérive pendant huit jours et huit nuits sur le Pacifique, en pleine
tempête. Mais là, c’est une autre histoire. J’ai passé un an et demi dans
deux camps de réfugiés aux Philippines avant d’arriver aux États-Unis le
25 Janvier 1985. Je me suis promis d’aller un jour à Lourdes et d’écrire
quelque chose sur Stendhal. Pendant cinq ans, j’ai réussi à remplir ces
deux promesses. Ma thèse de doctorat, reçue avec les félicitations des
professeurs de l’Université d’Oregon, que M. del Litto a accepté de faire
publier par Droz, à Genève, dans sa collection stendhalienne, s’intitule
justement La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal. Je ne puis
jamais assez remercier Dieu de m’avoir ainsi sauvé en m’accordant une âme
très romantique, très rêveuse, et m’inspirant cette passion folle pour la
littérature et, paradoxalement, pour Stendhal qui, on s’en souvient, n’est
pas toujours gentil envers Lui.
4.
J’ai déjà dépassé l’âge des vaines nostalgies, mais chaque roman de
Stendhal brille toujours en moi comme l’éclat d’un paradis retrouvé. Un
morceau de ma vie brisée. Je ne peux plus vivre sans rêver. Comme
autrefois au fond de l’enfer communiste. Quel irrémédiable ennui de ne
s’accrocher toujours qu’au réel, de ne pas lire chaque jour une de ces
pages stendhaliennes palpitantes d’amour, de joie, de parfum ! Après tout,
pour imiter Pascal dans son fameux pari, qu’allez-vous perdre en
lisant un roman de Stendhal? Rien, dirais-je! Mais si vous gagnez, vous
auriez tout un ciel du rêve, devant, avec et autour de vous. Et pour
finir, je me permets de vous citer les dernières lignes de mon livre sur
la prison stendhalienne, qui devient désormais “tout un nirvana,
utopique certes (quel prisonnier a connu le sort de Julien et de
Fabrice ?), mais infiniment précieux pour nous tous jetés dans ce bal
masqué appelé la vie, dans ce monde de la vingt-cinquième heure où
l’homme, derrière ses barreaux et moins chanceux que les héros
stendhaliens, est en quête perpétuelle, comme Henri Beyle sa vie durant,
d’un bonheur impossible, d’un Léthé qui ne s’écoule plus, d’une larme qui
n’est point pleurée.”
Antony,
France, Juillet 1991
Portland,
USA, Août 2012