Saturday, March 25, 2023

‘ NGƯỜI ĐÃ BIẾT YÊU NGƯỜI ? ’

 



Nhạc sĩ Văn Cao được nhận xét là một trong những trí thức tài đức của Việt Nam. Ông còn là thi sĩ, họa sĩ, tác giả của nhiều tuyệt tác. Cũng giống như nhiều trí thức miền Bắc bị Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trù dập vì tham gia vào phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ở giữa thập niên 50, cuộc đời của Văn Cao là một bi kịch chỉ vì ông dám thể hiện tư tuởng tiến bộ, yêu sách tự do cho nghệ thuật. Sự nghiệp của Văn Cao bị khai tử sau khi ông phổ biến bài thơ “Anh có nghe thấy gì không?” trên báo Giai Phẩm năm 1956:

“… Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người…”

Những minh hoạ do nhạc sĩ Văn Cao vẽ. Ảnh trái, ông vẽ một ấn phẩm. Ảnh phải, ông tự hoạ mình. (Ảnh: tài liệu internet)

Sau khi Nhân Văn Giai Phẩm bị ĐCSVN đấu tố, chà đạp danh dự và đàn áp dữ dội, Văn Cao đã bị đảng kỷ luật, phải đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng. Rồi lần lượt các tác phẩm khác của ông đều trở thành “quốc cấm”.

Trong suốt 30 năm, Văn Cao sống trong cô đơn, gian khổ, và gần như bị quên lãng như những văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Sau biến cố 30 Tháng Tư năm 1975, Văn Cao sáng tác tuyệt phẩm “Mùa xuân đầu tiên” và được báo Sài Gòn Giải Phóng in đầu Tháng Giêng năm 1976. Nhưng sau đó tuyệt phẩm này bị đảng giam cầm suốt 24 năm. Nghĩa là năm năm sau khi Văn Cao qua đời, vào năm 2000, “Mùa xuân đầu tiên” mới được “trả tự do.”

Nhà thơ Nghiêm Bằng, con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, đã viết về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên” trên báo Tuổi Trẻ vào Tháng Hai năm 2007:

Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.

Tôi nằm nghe từng nốt nhạc “rề rề rề, rề sol la sí sol… rề rề rề, rề sol la sí sol, rề sol la si rế…”. Cha đàn ngập ngừng, rồi ngưng. Mấy hôm sau cha đưa tôi bản nhạc hoàn chỉnh có cả lời: Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên, với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông…

Nhạc sĩ Văn Cao bên cây dương cầm. (Ảnh: tư liệu sưu tầm)

Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.

Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.

Phần lớn nhiều người cho rằng “Mùa xuân đầu tiên” bị đảng khai tử là vì câu “từ đây người biết thương người.” Nhà văn Trần Đĩnh đã kể lại lời tâm sự của Văn Cao về tuyệt phẩm này trong Đèn Cù:

Hòa bình, tao làm ‘Mùa xuân đầu tiên’ là tao vùi chôn đi cái thứ quân hành tanh tưởi máu Ðảng bắt dân ta theo… Bài ấy chính là tao nức nở nghẹn ngào, đúng, đến độ thành ra êm đềm như ánh sáng ban mai vừa mới ló, cuộc sống run rẩy mới lên mầm. Mày ơi, mấy chục năm máu xương liên miên liệu ‘người đã biết yêu người’ như tao hy vọng chưa hả?”

Người đã biết yêu người? 

Sau 47 năm tuyệt phẩm “Mùa xuân đầu tiên” được nhạc sĩ Văn Cao khai sinh trong đêm Đông rét lạnh tại Hà Nội, buồn thay khi đến giờ ‘NGƯỜI’ vẫn chưa biết, và không muốn ‘yêu người’ như Văn Cao mong đợi. Đằng sau ‘NGƯỜI’ là thế lực nhân danh là “đạo đức”, “văn minh”, “mùa Xuân” vẫn tiếp tục độc quyền “yêu nước”.

Không một thủ đoạn hèn độc nào bị loại bỏ nhằm để vu khống, giam cầm, sỉ nhục nhân phẩm, thậm chỉ thủ tiêu, để độc quyền “yêu nước.” Bất kỳ ai quan tâm đến các vấn đề tham nhũng, hoặc bày tỏ sự bất mãn trước một chế độ “ăn của dân không từ một thứ gì” sẽ bị thế lực này đàn áp tàn nhẫn. Bản báo cáo nhân quyền của tổ chức nhân quyền thế giới phản ánh rõ điều này.

Theo báo cáo nhân quyền, những người chỉ trích chính phủ Việt Nam đối mặt với sự đe dọa, quấy rối của công an, ngăn cản đi lại, bắt giữ, và giam giữ tùy tiện, sau những phiên tòa bất công. An ninh ĐCSVN còn tra tấn, ngược đãi, và giam giữ những tù nhân chính trị trong nhiều tháng mà không cho họ gặp luật sư.

Thêm nữa, những nhà bất đồng chính kiến và hoạt động nhân quyền thường xuyên bị nhà cầm quyền sách nhiễu, đe dọa, bắt bớ, và tống giam tùy tiện. Số lượng tù nhân chính trị tăng theo thời gian. Vào năm 2021, các tòa án chế độ đã kết án ít nhất 32 người bằng nhiều năm tù vì phản đối các vấn nạn xã hội.

Báo cáo nhân quyền còn cho biết ĐCSVN còn thường xuyên sử dụng bộ luật hình sự Điều 117 “tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” đối với các nhà hoạt động xã hội dân sự. Vào Tháng Giêng, một tòa án ở Thành phố Hồ Chí Minh đã kết các bản án nặng, từ 11 đến 15 năm tù, đối với các thành viên nổi tiếng của Hội Nhà báo Độc lập, gồm Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, và Lê Hữu Minh Tuấn.

Hàng loạt các nhà hoạt động nhân quyền khác cũng bị nhà cầm quyền bắt giữ và kết án bất công, như Phạm Đoan Trang, Nguyễn Thúy Hạnh, Lê Dũng Vova, Đỗ Nam Trung, Lê Trọng Hùng, Nguyễn Duy Hưởng, Nguyễn Bảo Tiến, Trần Hoàng Huân, Bùi Văn Thuận, Nguyễn Duy Linh, Đinh Văn Hải, và Lê Văn Quân…

Đáng chú ý là an ninh ĐCSVN cũng đã bắt giữ các thành viên của nhóm Báo Sạch, nhóm các nhà báo độc lập đấu tranh chống tham nhũng và lạm quyền, và họ đã bị kết án rất nặng từ hai đến bốn năm rưỡi tù giam.

Rõ ràng, “NGƯỜI” không phải không biết “yêu người”. Nhưng có lẽ, “NGƯỜI” không muốn “yêu người”, cố ý “bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người”. Đáng sợ hơn, “NGƯỜI” cũng ngăn chặn người ta “yêu nhau”. Vì chỉ khi người ta thù ghét nhau, không dựa dẫm nhau, “NGƯỜI” sẽ được bám chặt quyền lực lâu hơn nữa.

Xuân đến. Tết về, là thời gian của yêu thương, đoàn tụ, hy vọng. Thế nhưng, hàng trăm tù nhân lương tâm và chính trị vẫn đang bị giam cầm trong các nhà tù nhỏ. Tết thiếu bóng cha, bóng mẹ, bóng anh, bóng chị… được bao trùm bởi nỗi buồn thống thiết. Đến khi nào thế lực nhân danh “đạo đức” vẫn còn đàn áp những người máu đỏ da vàng để duy trì tình yêu cho quyền lực và giàu sang, thì ước mong “NGƯỜI biết yêu người” của Văn Cao vẫn mãi chỉ là một giấc mơ đẹp, thấm đượm tình người trên con chữ, trên nốt nhạc mà thôi.

Bi kịch và ước mơ của người nghệ sĩ Văn Cao, phải chăng cũng chính là bi kịch và khát vọng của dân tộc của ông?

Mai Vũ Phạm

Nguồn : https://saigonnhonews.com/thoi-su/van-de-hom-nay/nguoi-da-biet-yeu-nguoi/

Sunday, March 12, 2023

“VIỆT NAM BUỒN LẮM EM ƠI”

Trần Trung Đạo 

Chuyện ca sĩ Tuấn Ngọc sửa lời nhạc của Tình Bơ Vơ qua rồi. Chắc hôm nay ông đang hối hận trong lòng. Trước ông đã có nhiều ca sĩ cùng thời với ông hát bài này trong nước nhưng họ không sửa lời. Âu đó cũng là một bài học cho ông.

Hát sai lời hay sửa lời không phải chỉ xảy ra lần đầu. Nhiều ca sĩ vô tình hát sai nhưng cũng có ca sĩ cố tình hát sai. Ca sĩ Khánh Ly trong bài Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn thu lần đầu năm 1979 đã sửa “đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly” thành “đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh” để bày tỏ sự kính trọng dành cho ca sĩ đàn chị của mình. Đó là một cách sửa lời đáng quý.
Nhưng trường hợp của ca sĩ Tuấn Ngọc thì khác. Trong video, rõ ràng ông đã cố tình sửa hai chữ quan trọng nhất trong bản nhạc từ “Việt Nam” sang “Chiều nay”.
Ca sĩ Tuấn Ngọc nhìn vào bản nhạc để ngay trước mặt và còn đeo kính lão nữa. Dù sao, để công bằng cho ca sĩ Tuấn Ngọc, người viết ‘google’ câu “chiều nay buồn lắm em ơi“ nhiều lần để biết đâu ai đó đã sửa trước và ông gặp vận xui nên đã dùng bản sai đó. Nhưng không có. Ông cố tình hát “Chiều nay buồn lắm em ơi”.
Sửa những chữ khác không sao nhưng thay chữ “Việt Nam” bằng “Chiều nay” thì khác. Dư luận khắt khe, có khi nặng lời không cần thiết nhưng họ không có lý do riêng gì để thù hằn ca sĩ Tuấn Ngọc mà chỉ ghét thế lực mà họ nghĩ ca sĩ Tuấn Ngọc vừa thỏa hiệp. Dù ghét bao nhiêu cũng không nên mạt sát vì mạt sát là hành động của những người tuyệt vọng.
Do đó, trong chiều sâu và thực chất của vấn đề, sự phẫn nộ vừa qua không phải là phẫn nộ giữa người dân với ca sĩ Tuấn Ngọc mà giữa người dân với đảng CS. Những người phê bình ca sĩ Tuấn Ngọc nghĩ rằng ông “mặc áo giấy” để làm vừa lòng "ma". Phê bình ca sĩ Tuấn Ngọc là một cách phê bình đảng mà không sợ bị tù.
Người viết cũng không nhắm vào cá nhân ca sĩ Tuấn Ngọc mà chỉ mượn câu chuyện thời sự có liên quan đến ông để viết về một quan tâm lớn hơn, đó là tính thỏa hiệp.
Khái niệm thỏa hiệp (compromise) được dùng trong mọi lãnh vực để chỉ một sự nhân nhượng giữa hai bên tranh chấp mong đạt đến một điểm có thể cùng chấp nhận. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thỏa hiệp chỉ có tính đơn phương, một chiều, tự khuất phục, tự hạ thấp giá trị của mình để lấy lòng người khác, thế lực khác.
Nhạc sĩ Vũ Thành An biện hộ cho ca sĩ Tuấn Ngọc: “Các bài hát cũ được truyền từ người nọ qua người kia, không có nguyên bản, không tham khảo Nhạc Sĩ nên sai lời là phổ biến. Ca Sĩ khi hát thường tìm lời trên Internet. Những gì trên Internet cũng là sao chép lại.”
Lời biện hộ này không đủ tính thuyết phục. Ít thuộc nhạc và chưa từng hát Tình Bơ Vơ như người viết bài này mà còn biết trong nhạc phẩm đó có câu “Việt Nam buồn lắm em ơi” nói chi là một ca sĩ đã hơn nửa thế kỷ sống bằng nghề ca hát. Ông có thể chưa hát nhưng hẳn đã nghe đồng nghiệp hát không phải một lần mà nhiều lần.
Một bản nhạc, một bài thơ hay một bài văn đều có tâm hồn và tâm hồn được thể hiện bằng những câu nổi bật làm người đọc sẽ nhớ lâu. Trong nhạc phẩm Tình Bơ Vơ câu nổi bật là “Việt Nam buồn lắm em ơi”.
Nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Bắc là Phú Quang từng bị trù dập suốt 10 năm chỉ vì câu “đâu phải bởi mùa thu” nhưng ông nhất định không thay lời bài hát mà còn chửi đám tuyên huấn là “ấu trĩ”. Nhạc sĩ Phú Quang không thỏa hiệp và đã thắng.
Các nghệ sĩ Lộc Vàng, Phan Thắng Toán và Văn Thành bị kết án 10 năm tù chỉ vì hát những bản tình ca, đa số là về mùa thu, của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, nhưng không ai đọc chuyện các anh sửa lời bài hát dù đang sống trong xích xiềng sắt máu của chế độ CS thập niên 1960. Ba nghệ sĩ trong nhóm Lộc Vàng không thỏa hiệp và bước ra khỏi nhà tù như những người chiến thắng.
Một ngày khi chế độ CS ra đi, âm nhạc là lãnh vực được thay đổi nhanh chóng và dễ dàng nhất. Ngay hôm nay trên đường phố Sài Gòn, trong những quán nhạc, những quán cà phê đều hát nhạc VNCH và đặc biệt là nhạc lính VNCH. Bên cạnh những Tình Ca, Hướng Về Hà Nội, các nhạc phẩm Những Rừng Lá Thấp, Anh Không Chết Đâu Em, Trăng Tàn Trên Hè Phố v.v... đang được hát. Nhạc VNCH là một phần trong đời sống tinh thần của người dân thuộc nhiều thế hệ khắp ba miền. Các em, các cháu có thể chưa hiểu hết nội dung nhưng chắc chắn biết Việt Nam đã từng có một thời tự do và đáng yêu như thế.
Có lẽ hôm nay ca sĩ Tuấn Ngọc đang tự trách phải chi mình cứ giữ nguyên và hát một cách tự nhiên. Nhưng giấu đi hai chữ “Việt Nam” làm cho vấn đề không chỉ trở nên trầm trọng mà còn xúc phạm đến mọi người Việt Nam có ý thức và tình cảm dân tộc.
“Việt Nam” hai tiếng rất thiêng liêng nhưng cũng đầy đau thương và nhức nhối.
Tiếng súng đã ngưng 47 năm nhưng mỗi người Việt trong cũng như ngoài nước, ở mức độ khác nhau, đều còn mang trong tâm hồn một vết thương chưa lành nằm phía dưới làn da mỏng. Họ sống có vẻ bình thường nhưng một hạt muối, một mũi kim, một cơn gió mạnh có thể sẽ làm vết thương đang mưng mủ vỡ ra.
“Việt Nam buồn lắm em ơi” không chỉ là câu nhạc của nhạc sĩ Lam Phương mà cả một khung trời, một tâm cảm của con người và một vấn nạn chưa giải quyết xong của đất nước.
Những kẻ làm cho “Việt Nam buồn lắm em ơi” đang sống trong các biệt thự cao sang, khi chết được chôn trong các nghĩa trang rộng 55 ngàn mét vuông như trường hợp Trần Đại Quang, con cái họ học trung học tư ở Mỹ, học đại học tư ở Mỹ, mua nhà giá hàng triệu dollar bằng tiền mặt ở Mỹ. Tiền đâu nếu không phải tham nhũng từ mồ hôi, nước mắt và cả máu của đại đa số người dân bị trị.
Sau 47 năm nhưng cuộc chiến vẫn chưa tàn. Các thành phần dân tộc chống độc tài đảng trị cũng đang một lớn dần. Họ không còn cô đơn, lẻ loi, đơn độc nhưng những ngày sau 1975 ở nhà thờ Vinh Sơn, Sài Gòn hay ở chùa Dược Sư, Cần Thơ. Sức mạnh của người dân không thua kém gì sức mạnh của đảng. Họ tận dụng mọi thành quả của cuộc cách mạng tin học và khai thác mọi kẻ hở của bộ máy cai trị để chống lại bạo quyền. Dĩ nhiên trong đó có việc chống lại những kẻ a dua, toa rập và thỏa hiệp với bạo quyền.
Đảng có nhà tù nhưng người dân có lương tri. Đảng có bộ máy tuyên truyền lừa bịp nhưng người dân có sự thật. Cuộc đấu tranh giữa công lý và bạo lực rất cam go và có thể còn kéo dài khá lâu nhưng đảng cũng biết không nhà tù nào đủ lớn để nhốt hết được lương tri.
Nhà tù CS có giới hạn không gian trong khi lương tri là cả một dòng sông lịch sử dài mang tâm hồn Việt Nam bao la bát ngát chảy qua nhiều thế hệ. Dòng sông đó vẫn chảy và vẫn đang bồi đắp phù sa khát vọng tự do dân chủ cho hôm nay và mai sau.
Sau 30 tháng 4, 1975, khi chủ trương đốt sách, đảng nghĩ chỉ cần nửa thế kỷ khi các thế hệ chiến tranh qua đời hết sẽ không còn ai nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa, nhắc đến sách vở, âm nhạc, thơ ca được sáng tác trước 1975.
Nửa thế kỷ sắp qua nhưng Việt Nam Cộng Hòa không chỉ được nhắc nhở mà đang sống hào hùng trong giáo dục, văn học, âm nhạc, thi ca và lý luận chính trị. Sự thật như ánh sáng mặt trời có thể nhất thời bị che khuất bởi đám mây đen nhưng không mất. Tần Thủy Hoàng, Stalin, Hitler đều đốt sách nhưng cũng đều không che giấu được tội ác của mình.
Chế độ CS tại Việt Nam chỉ là một chế độ tạm thời. Cơn bão sẽ qua đi và những ngọn lúa Việt Nam sẽ đứng dậy. Wojciech Jaruzelski của Ba Lan biết điều đó. Janos Jozsef Kadar của Hungary biết điều đó. Họ là những hung thần của một thời chuyên chính vô sản nhưng cuối cùng đã phải đầu hàng trước lương tri của dân tộc họ và của loài người yêu chuộng tự do. Việt Nam rồi cũng thế.
“Việt Nam buồn lắm em ơi” là sự thật hôm nay.
Tùy theo tầm hiểu biết và nhận thức của mỗi người, một chị bán hàng rong hay một nhà nghiên cứu chính trị chiến lược dù không nói ra nhưng đều công nhận “Việt Nam buồn lắm em ơi”.
Thân phận Việt Nam trong lòng một chị bán hàng rong và một nhà nghiên cứu có một điểm băn khoăn giống nhau là không biết ngày mai sẽ ra sao. Ngày mai gia đình chị sẽ ra sao. Ngày mai đất nước anh sẽ ra sao. Ngày mai dân tộc chúng ta sẽ ra sao.
Nhà nghiên cứu nhìn sang Cambodia, nhìn sang Philippines, nhìn sang Đài Loan, nhìn ra những dàn hỏa tiễn đặt trên bảy căn cứ quân sự dưới dạng “đảo nhân tạo” của Trung Cộng trên Biển Đông đang chĩa vào Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn và lo cho tương lai dân tộc sẽ về đâu. Việt Nam như con ếch “ổn định” trong nồi nước nóng của Tập Cận Bình đang đun. Lửa mỗi ngày một bốc cao hơn. Nước mỗi ngày một nóng hơn. Với tình cảnh này, sớm hay muộn, nếu không tìm cách nhảy ra, ếch Việt Nam cô đơn sẽ bị luộc chết trong nồi Đại Hán.
Chị bán hàng rong cũng thế. Chị nhìn đàn con ốm yếu, nhìn bếp lửa tối âm u, nhìn căn nhà tôn dột nát và lo cho gia đình mình, các con rồi sẽ ra sao. Chúng có cơ hội đến trường như bao nhiêu đứa trẻ khác hay không. Cho dù đủ sức học thì tiền đâu để đóng học phí, để ăn, để sống cho tới khi ra trường. Mùa đông nào cũng lạnh nhưng con nhà nghèo sẽ lạnh hơn và đêm nhà nghèo sẽ dài hơn.
Phân tích từ phạm vi quốc tế cho đến gia đình để thấy Việt Nam cần thay đổi tận căn bản và cần sự góp sức của mọi người còn quan tâm đến vận nước. Thỏa hiệp với chế độ là phản bội lợi ích của đại đa số người dân Việt Nam.
Dòng văn minh nhân loại đã chảy qua những sa mạc ở Bắc Phi và Trung Đông như Tunisia , Libya, Ai Cập v.v.. và Mùa Xuân Arab (The Arab Spring) đang có ảnh hưởng tích cực tới Việt Nam. Các cuộc cách mạng dân chủ Arab là những cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử loài người được hướng dẫn bằng các mạng tin học. Trong cuộc cách mạng xã hội lần này, không cần ai phải “xếp bút nghiên”, không cần ai phải “biệt kinh kỳ”. Cuộc tranh đấu để bào mòn chế độ, cô lập chế độ và loại bỏ chế độ đang diễn ra ngay trước mắt mọi người dưới nhiều hình thức.
Vô số việc cần làm và nên làm. Một nhóm bạn mang tình thương đến cho các cháu mồ côi, một nhóm bạn khác quyên góp từng áo mùa đông cho các cháu vùng cao, một nhóm bạn mở trường dạy chữ, mỗi người một việc, đơn giản nhưng tràn đầy ý nghĩa. Một khi nhận thức được nâng cao, tình thương được lan tỏa rộng, hận thù và nghi kỵ sẽ tan dần đi như khói như sương.
Đảng đang ở trong thế thủ chỉ còn trông cậy vào nhà tù và bộ máy tuyên truyền đang mất dần tác dụng. Các thành phần dân tộc chống thỏa hiệp với chế độ có mặt ở khắp nơi và đang thắng thế.
“Việt Nam buồn lắm em ơi” nên Việt Nam phải thay đổi để sống còn với thời đại. Mỗi người trong điều kiện và khả năng của mình nên thuận theo đà phát triển của văn minh để góp phần làm thay đổi xã hội Việt Nam thay vì thỏa hiệp với giới cầm quyền để kéo dài chế độ độc tài đảng trị.
Về nước sống dưới sự cai trị của đảng CS là thỏa hiệp với chế độ dù người đó là ai và nhân danh bất cứ lý do gì. Nhưng trong khi sống và hành nghề trong lòng chế độ cũng nên đặt ra cho chính mình một lằn đỏ tránh vượt qua. Lằn đỏ đó chính là tư cách và trách nhiệm của một người Việt Nam đối với tương lai dân tộc và các thế hệ đi sau.
Trần Trung Đạo

  THÔNG BÁO V/v TỔ CHỨC BẦU CỬ TÂN BAN CHẤP HÀNH & TÂN BAN GIÁM SÁT KHU HỘI CỰU TNCT/VN NAM CALIFORNIA NHIỆM KỲ 2025 - 2028 -Tham chiếu ...